Tập hợp những bài viết về âm thanh ánh sáng sân khấu

Posted by admin
Tập hợp những bài viết về âm thanh ánh sáng sân khấu - Đức Yamaha
 
 
Âm thanh cơ bản





MỤC LỤC :



Lời nói đầu.



Chương 01 : Thiết bị và dụng cụ âm thanh.



I / Các loại dây, đầu nối tín hiệu.

II / Các thiết bị thu âm (Microphone).

III/ Các thiết bị Pre-ampli (tiền khuyếch đại).

IV/ Các thiết bị kỹ xảo (effect).

V / Các thiết bị tăng âm (amplifier). 

VI/ Các thiết bị phát âm (loa)(speaker).



Chương 02 : Các lý thuyết cơ bản về âm thanh.



I / Định nghĩa về âm thanh.

II / Các thông số kỹ thuật.

III/ Cách vận hành các thiết bị.

IV/ Cách thiết kế âm thanh cho một sân khấu hoàn chỉnh.



Lời nói đầu :

Trong tất cả các hoạt động về sân khấu (ca nhạc,kịch v,v), âm thanh và ánh sáng là những lãnh vực không thể thiếu được, nó hòa nhập vào chương trình như xương sống và kịch bản là linh hồn của buổi biểu diễn vậy.

Thời gian gần đây, trình độ kỹ thuật của thế giới càng ngày càng tiến triển vượt bậc. Các thiết bị nâng cấp mau chóng để đáp ứng nhu cầu thưởng thức của quần chúng. Các kỹ thuật viên chúng ta phải học hỏi nhiều để nâng cao nghề nghiệp. Vấn đề là ở VN chưa có trường lớp nào dạy bộ môn này cả, sách vở cũng quá ít, hầu hết là sách ngọai ngữ. Tất cả chúng ta đều phải học hỏi qua kinh nghiệm của người đi trước hay trong quá trình làm việc của bàn thân. Gần đây, nhờ có Internet WWW nên ta có cơ hội học hỏi thêm những tiến bộ kỹ thuật trong nghề nghiệp.

Nay tôi post lên trên blog này một số kinh nghiệm về những kỹ thuật trên. Trong bài này là những kỹ thuật cơ bản nhất mà các bạn mới vào nghề cần phải nắm bắt. Tôi sẽ post dần dần, những kỹ thuật nâng cao, xin mời các bạn comment. Xin các bạn vui lòng bổ sung thêm cho những sai sót (nếu có) trong post này vì trong kỹ thuật, không ai có thể hòan hảo cả.

Chương 01 : Thiết bị và dụng cụ âm thanh.



Phần này, xin nói trước, chỉ giới thiệu sơ lược về các thiết bị âm thanh mà thôi. Cho nên, trong khi đọc, các bạn có thể không hiểu một số vấn đề nào đó. Nó sẽ được giải nghĩa thêm vào các phần sau.





I / Các loại dây , đầu nối thiết bị .

-Dây tín hiệu :

Trong lãnh vực âm thanh, giữa hai thiết bị với nhau ,đều được nối với nhau bằng một loại dây tương tự như dây điện. Nhưng để tránh xảy ra hiện tượng noise (nhiễu), dây này được thiết kế đặc biệt hơn các loại dây thông thường. Đơn giản nhất là là một sợi dây điện nhiều sợi có bọc nhựa mềm được bao quanh bởi một lớp giáp bằng những sợi dây diện nhỏ mềm kín tất cả chu vi. Dây này được gọi là dây tín hiệu đồng trục (coaxial signal wire).Loại dây trên chỉ được dùng trong các máy dân dụng vì khả năng chống noise kém và không thể nối dài quá 3 mét (10 feet) mà không bị hao hụt tín hiệu.

Chuyên nghiệp hơn (Professional), loại dây chúng ta phải dùng là loại dây cũng có 1 giáp nhưng bao quanh 2 sợi dây điện mềm (dây balance). Tính năng loại này chống noise cao và có thể kéo dài tối đa 300 mét (1000 feet).



Hình ảnh



-Audio link : 

Thông thường, bàn điều khiển âm thanh (sound console) đặt cách xa sân khấu biểu diễn. Nếu chúng ta phải thiết kế vài chục sợi dây tín hiệu thì quá bất tiện. Thế nên, chúng ta phải dùng một sợi dây gọi là audio-link có sẵn vài chục sợi dây tín hiệu nhỏ bên trong, hai đầu là jack XLR3 đực và cái. Thường là 12 input + 2 output hay 16 +4, 20 + 4, 24 +6 hoặc hơn nữa. Với chiều dài 100 feet, 200 feet v/v…

-Dây loa (speaker wire) :

Trên lý thuyết chúng ta có thể sử dụng bất kỳ loại dây dẫn điện đôi nào miễn nó có tiết diện đủ lớn và phân biệt được 2 sợi với nhau là có thể làm dây loa được rồi. 

Trên thị trường trong nước hiện nay, thông dụng nhất cho chúng ta sử dụng là loại dây đôi do Nhật sản xuất có lớp nhựa trong cho thấy lõi bên trong hai loại dây kim loại màu trắng bạc ta gọi là – (cold) và màu đồng ta gọi là + (hot).



-Các loại đầu nối (jack, connector) :

Tất cả các loại jack đều có hai cái đi từng cặp male và female (đực và cái) . Riêng tên gọi này tiếng Việt ta dịch sát nghĩa nhất (các bạn cứ việc tưởng tượng là đủ hiểu).

-Phone jack (jack 6 ly) : còn gọi là ¼” connector, khi hàn với dây tín hiệu, các bạn nhớ phân biệt ground (mát) , cold (trừ), hot (cộng) theo hình kèm sau đây. Riêng phone jack mono chỉ có hai cực thôi, trừ và mát nhập chung.



Hình ảnh



-RCA jack (jack hoa sen) : loại này thường dùng để nối các loại máy phát nhạc (CD, Tape) với mixer ,ta chỉ cần dùng dây kèm theo máy là được.



Hình ảnh



-XLR3 jack (jack canon) : Jack thông dụng nhất trong các loại đầu nối tín hiệu. Nó được dùng trong hầu hết các thiết bị âm thanh chuyên nghiệp. Từ microphone, mixer , effect,amplifier đều phải sử dụng nó. 

Cách nối nó với dây tín hiệu như sau :



Hình ảnh

Hình ảnh



Trong trường hợp đấu nối các loại jack có 3 cực , các bạn phải để ý tới cách đấu balanced và unbalanced (sẽ giải thích rõ vấn đề này ở chương 02 phần 1).

-DIN jack (jack 5 chân) : Đó là một bộ jack đực, cái 5 cực (xem hình) dùng để nối các tín hiệu âm thanh với nhau. Trong các hệ thống âm thanh dân dụng, một cách tiện lợi và đơn giản, nó nối input output stereo của các thiết bị band, đĩa với ampli chỉ bằng độc nhất một sợi dây tín hiệu. 



-Jack speakon : Phần này nói tới đầu nối các thiết bị loa và amplifier. Ở các hệ thống âm thanh cũ, thường nối các thiết bị này mà không cần đầu nối, nghĩa là đằng sau amplifier và loa có những cọc điện và chúng ta chỉ cần lấy dây loa nối chúng lại theo từng cặp có đánh dấu + - là xong hoặc dùng phone jack đực cái làm đầu nối. Tuy nhiên cả hai cách này đều có những khuyết điểm : khó làm và không an toàn. Gần đây các hãng sản xuất đều dùng jack speakon vì những ưu điểm sau :

- Các chấu nối rất chắc , không thể tuột ra được.

- Một jack có thể từ 1 đến 3 way trong mỗi thùng loa (sẽ đề cập từ way sau).

-An toàn và tiện lợi cho người sử dụng.
 
Âm thanh cơ bản.

II / Các thiết bị thu âm (Microphone) :



Microphone có rất nhiều loại, nhưng khái quát, chúng ta có thể chia ra 3 loại theo cách cấu tạo sau :

- Loại Dynamic (điện động) : Cấu tạo bởi một màng mỏng gắn vào một vòng gồm nhiều lớp dây đồng, đặt trong một từ trường (nam châm vĩnh cửu) . Khi có tác động của âm thanh lên màng sẽ tạo ra một tín hiệu điện xoay chiều. Loại này được ngành âm thanh chúng ta sử dụng rộng rãi nhất.

-Loại Ruban (Ruybăng) : Cũng như trên, nó có một từ trường bằng nam châm vĩnh cửu nhưng bao quanh giải nhôm thật mỏng có khi đựơc gấp nhún để tăng độ nhậy cơ học. Loại này được xem là nhậy (sensitivity) nhất nhưng rất dễ hư khi gặp chấn động mạnh, ngay cả khi thổi mạnh vào nó cũng có thể gây ảnh hưởng chất lượng nên chỉ được sử dụng trong các phòng thu âm.

-Loại Condenser (Tụ điện) : Loại này gồm 2 màng kim lọai mỏng đặt lên nhau, ở giữa là môt lớp cách điện tương tự như cấu tạo của một tụ điện. Khi áp với nó một điện tích DC, nó sẽ gây ra một tín hiệu điện nếu có âm thanh làm rung 2 màng kim loại đó, bằng cách thay đổi điện dung. Trong thực tế, nguồn cấp điện này do Mixer cung cấp gọi là Phantom, nó đưa một nguồn điện DC + 40 volt dòng rất nhỏ vào tất cả các Jack XLR3 input của mixer.

Microphone có rất nhiều kiểu dáng tuỳ theo các hãng nổi tiếng sản xuất như Electro voice, Sennheiser, Shure, AKG,Neumann,RCA v/v… Nhưng chúng ta chỉ lấy một nhãn hiệu Shure để làm mẫu vì trong lãnh vực âm thanh thế giới và Việt Nam, nó rất thông dụng.



Model Shure thông dụng nhất là SM 58 sử dụng cho ca sĩ, nó thu giọng hát trung thực và không bị tạp âm (xem hình).



Hình ảnh

Hình ảnh



SM 57 sử dụng cho hầu hết các nhạc cụ như Trống (drum), Guitar ampli v/v…

SM 87 là loại condenser , sử dụng Mixer phải có Phantom.

Ngoài series SM, Shure còn có series Beta, cấu tạo giống như SM, nhưng có thêm một cuộn dây đồng có tác dụng chống hú (feed-back). Series này rất hoàn hảo, nhưng giá bán thường gấp đôi series SM.

Để tiện lợi hơn, trên sân khấu chuyên nghiệp còn dùng một loại microphone như các loại trên nhưng không có dây nối tín hiệu. Đó là micro không dây (wireless microphone). Nó gồm một micro thường có gắn một máy phát sóng nhỏ(transmitter) dùng pin khô, và một máy thu sóng(receiver). Ngõ ra(output) của receiver có tín hiệu như mico thường để nối vào mixer. Tần số phát sóng là VHF và UHF. Dĩ nhiên dùng UHF chất lượng sẽ cao hơn.



Hình ảnh



Hình ảnh



Hình ảnh



Hình trên là 2 loại wireless microphone của hãng Shure : Series UT cho UHF va LX cho VHF. Trên lý thuyết của hãng Shure, khoảng cách giữa Microphone va Receiver có thể đạt tới 100 mét, nhưng khi thực tế sử dụng ta nên đặt tối đa 30 mét là vừa.
 
 

 

III / Các thiết bị pre-ampli (tiền khuếch đại).

-Mixing console : Các thiết bị như microphone hay nhạc cụ đều có tín hịêu rất nhỏ, khoảng –40 dB đến –20 dB. Bởi thế, chúng cần phải khuếch đại lên một điện thế chuẩn để có thể chỉnh sửa lại một cách dễ dàng. Nhiệm vụ này là của Mixing console (bàn điều khiển âm thanh) (Mixer).



Hình ảnh



Mixer có thể có từ 4 đến 64 ngõ vào (input) hay còn gọi là channel và khá nhiều ngõ ra (output). 

Ngõ input thông thường là một jack XLR3 cho microphone balanced hay một phone jack cái cho tín hiệu line in. Có thể có thêm một phone jack cái stereo có tên Insert làm nhiệm vụ ngắt tín hiệu mở đầu đưa sang một thiết bị khác và lại đưa trở về cùng một phone jack. Nếu không sử dụng jack này, nó chỉ là một điểm nối tiếp của tín hiệu. Kế đến là một biến trở Sens (sensitivity) hoặc Gain (độ lợi) điều chỉnh độ nhậy của tín hiệu input từ –20 dB đến + 20 dB cho mỗi ngõ vào. Sau đó là một tổ hợp biến trở dùng để điều chỉnh âm sắc (equalizer) cho từng channel. Thông thường là 4 biến trở chính : High hay Treble (chỉnh tần số cao), Mid hay Medium (chỉnh tần số trung bình) , Mid pos (ấn định tần số Mid cần điều chỉnh), Low hay Bass (chỉnh tần số thấp). Sau đó là 2 hay nhiều biến trở khác có tên Send 1, Send 2, 3 v/v … điều chỉnh âm lượng của chính channel đó gởi (send) sang một hay nhiều thiết bị chỉnh sửa khác. Một biến trở khác có tên là Panpot (pan) hay balance đưa tín hiệu sang trái (left) hay phải (right) của ngõ ra stereo. Sau đó là một nút nhấn Mute (câm) làm tắt lập tức tín hiệu của channel này, không chuyển sang bất kỳ một thiết bị nào khác. Chung quanh nút này có thể có thêm một đèn led báo hiệu channel đã bị khóa và một đèn báo đang có tín hiệu hoạt động (nhấp nháy). Cuối cùng là một biến trở dạng gạt loại lớn gọi là Fader (volume) sẽ là nơi điều chỉnh âm lượng chính cho từng channel. Bên cạnh và song song là những nút nhấn đưa tín hiệu sang những track âm thanh (sub, group) ta được chọn. Thí dụ: group 1-3, group 2-4 , nhấn group nào sẽ đưa sang track tương ứng.



Hình ảnh Hình ảnh Hình ảnh Hình ảnh



Tín hiệu âm thanh của tất cả các channel sẽ được trộn (Mix) và đưa sang tầng Output. Có nhiều loại output : Stereo out (master out),Mono out, Track out, Send out, Group out v/v… 

-Equalizer : Thiết bị điều chỉnh âm sắc chính. Nó là một bộ khuếch đại 1/1 nhưng có khả năng tăng , giảm biên độ của từng loại tần số trong giải tần mà chúng ta nghe thấy được trong khoảng từ 20 Hz đến 20 KHz. Mỗi loại tần số ta gọi là 1 band. Tùy theo cần dùng, nó có nhiều qui cách : từ 5 đến 31 band hay hơn nữa, stereo hay mono.



Hình ảnh



Hình chụp trên là một equalizer dạng 2031, 2 có nghĩa là 2 equalizer mono trong một thiết bị, 31 là mỗi cái có 31 bands. Vậy 1015, 2015, 1020, 2020 cùng ý nghĩa trên, các bạn cứ việc suy nghĩ theo.

Chất lượng equalizer tùy thuộc vào số lựơng band nhiều hay ít, biên độ gia giảm âm lượng mỗi band lớn, trung bình là ± 12 dB. Trong nhiều loại equalizer pro (porfessional = chuyên nghiệp) có thêm filter (lọc) những âm thanh ngoài giải tần nghe được như đã nói ở trên có thể nâng lên từ 40 Hz và 18 KHz. Điều này rất cần thiết vì nó sẽ loại ra được những tạp âm chúng ta không cần nghe nhưng vẫn ảnh hưởng tới công suất phát âm, thí dụ như những tiếng rít cao tần, tiếng noise của thiết bị. Đa số các trường hợp cháy loa là do nguyên nhân này. Khi điện năng không sinh ra cơ năng (âm thanh) sẽ sinh ra nhiệt năng (nguyên lý bảo toàn năng lượng) làm cháy các thiết bị loa và ampli.

Ngày nay, nhờ kỹ thuật số (digital) tiến triển vượt bậc, người ta đã phát minh ra Digital equalizer có chất lượng rất cao. Nhờ phân tích được tín hiệu âm thanh ra thành số nhị phân tương ứng với 24 bit (nghĩa là nó có thể hiểu được đến tần số 96 KHz) nên khi đưa qua bộ vi xử lý nó có thể làm tất cả những gì mả các thiết bị Analog (tuyến tính) có thể làm được mà còn hay hơn rất nhiều, khó có thể tưởng tượng nổi.

-Crossover (chia tần số cho loa) : Tín hiệu ngõ ra chúng ta chỉ có một, nhưng để ra các loa phát âm thì lại có nhiều loại loa quá. Nào là loa lớn loa nhỏ, loa màng mỏng loa màng dầy, lại có loại loa bằng kim loại nữa. Mỗi loa chỉ phát ra được một giải tần số âm thanh nào đó thật tốt mà thôi. 

Đối với các loại máy dân dụng (Hifi), hay các thùng loa đơn giản, chúng ta thường áp dụng mạch LC (cuộn dây và tụ điện) để chia công suất phát ra từ ampli thành hai hay nhiều ngõ, mỗi ngõ áp lên một loại loa phù hợp. Tổ hợp này gọi là Mechanic Crossover (bộ chia loa cơ học). Tuy đơn giản và tiện lợi, nhưng nó có những khuyết điểm lớn : Không chính xác và bản thân nó cũng đã làm tiêu hao một phần công suất của ampli phát ra. Chính vì điều này, người ta phải nghĩ ra cách khắc phục những khuyết điểm nêu trên, và Electronic Crossover (bộ chia tần số điện động) và sau nữa Digital Crossover (bộ chia tần số kỹ thuật số) ra đời.

Dù là Crossover Electronic hay Digital thì hai loại này đều có các đặc tính ngoại vi giống nhau : 

Một Input nếu là thiết bị mono và hai Input nếu là stereo.

Hai cho tới 4 way output. Nếu 2 thì có High và Low Output, 3 có High – Mid – Low Output, 4 có High – HiMid – LoMid – Low Output. Thông thường một thiết bị Crossover chỉ đáp ứng 2 way cho stereo (2 channel), còn nếu sử dụng 3 hay 4 way thì chỉ có mono mà thôi. Nếu muốn làm stereo phải có 2 thiết bị giống nhau, mỗi cái cho một bên left, right channel. Mỗi way có một biến trở chỉnh (adjust) tần số cắt (cut) thấp nhất và một biến trở chỉnh biên độ âm lượng của giải tần được chọn, thoát ra khỏi thiết bị bằng một jack XLR3 male tương ứng.

 

 
IV/ Các thiết bị kỹ xảo (effect).

Trong phần này, chúng ta xét đến các thiết bị ứng dụng điện tử để biến chất âm thanh mục đích là làm tăng thêm hiệu quả tới người nghe. Xin nói khái quát về các thiết bị này.

-Echo, delay : Thiết bị này là thành phần chính, không thể thiếu được trong âm thanh sân khấu. Từ một âm thanh (voice) đơn giản, nó có thể tạo thêm Echo (tiếng vọng), Delay (lập lại), Reverb (vang ra), Chorus (đồng ca) và hàng trăm thứ tiếng khác (Multi effect).

Thông thường, chúng ta sử dụng trộn vào Mixer tạo cho tiếng hát của ca sĩ thêm phong phú. Cũng có khi chúng ta cải tạo âm thanh của một loại nhạc cụ nào đó. Thiết bị này hiện nay được làm theo kỹ thuật số (digital) , thay thế cho loại Analog đã lỗi thời, cho nên người sử dụng nên có một trình độ về computter tương đối khá để có thể lập trình được loại thiết bị này (programable) .

-Compressor (bộ nén tiếng) : Khi một tín hiệu âm thanh hoạt động, đã được khuyếch âm và ra tới loa, thường bị biến dạng ít nhiều tùy theo thiết bị sử dụng. Sự dao động cơ học của màng loa gây ra nguyên nhân này. Nhất là âm trầm, nó sẽ kéo dài âm thanh ra một chừng độ nhất định ngoài ý muốn của chúng ta. Điều này tạo ra tiếng rền của loa, rất khó chịu. Để khắc phục khuyết điểm này, người ta tìm cách xử lý tín hiệu trước khi tăng âm bằng cách cắt bớt 1 phần biểu thị hình sin của tần số âm thanh. Các bạn hãy làm quen với những từ biểu thị cách xử lý này : Attach (tấn công), Release (thả), Threshold (ngưỡng), Limit (hạn chế) v.v.

-BBE (tên hãng sản xuất) hoặc Contour v.v : Cũng là thiết bị xử lý âm thanh. Nó làm nở ra hoặc co vào 2 cạnh của đường biểu diễn hình sin, làm cho ta cảm nhận âm thanh có vẻ dầy hơn hoặc mỏng hơn ở giải tần định trước.

Sau đây là biểu đồ hiển thị cách xử lý âm thanh của Compressor và BBE :



Hình ảnh



Ngoài ra, còn những thiết bị effect khác đều có tác dụng tăng sự thẩm mỹ cho âm thanh, người viết chưa tiện đề cập trong phần này.

 

Tiếng “hú” (feedback): Nguyên nhân và cách xử lý.

Các bạn đi làm show AT chắc sợ nhất là cái pan khó trị này. Vậy tiếng hú là gỉ? Tại sao phát sinh ra nó? Chúng ta hãy tìm nguyên nhân và tìm cách xử lý nó. Các thiết bị chuyên dùng để xử lý pan này thì rất nhiều, nhưng hãy để đến phần cuối cùng hãy nói tới. Trị pan thì phải chữa từ gốc, cũng như trị bệnh tật vậy, chứ cứ đau đâu, hư đâu, thì sửa đó thì làm sao mà hết được.

Xuất xứ tiếng hú là ở các thiết bị thu được âm thanh như microphone hay các bobin của đàn guitar điện. Khi micro được nâng quá một ngưỡng độ nhậy nhất định, nó sẽ nghe và thu được AT của chính nó phát ra, nó lại khuếch đại thêm lần nữa, rồi lại thêm nhiều lần nữa, mỗi lần một lớn hơn cho tới khi đạt peak (đỉnh) công suất của ampli. Quá trình tuần hoàn này gọi là loop feedback. Vì giải tần phát ra không tuyến tính nên chỉ có giải nào vượt trội mới bị feedback thôi, và như thế tất cả mọi giải tần đều có thể bị chi phối cả. Feedback ở tần số cao, nôm na gọi là “rít”, “rét”, thấp hơn ở lo-mid là “um”, và cuối cùng ở bass thì “ụt”, “ùm”. Nhớ để ý phân biệt với tiếng “ù” của điện lưới xoay chiều 50 Hz xảy ra khi thiết bị hư hỏng hoặc dây tín hiệu bị hở mạch. Bây giờ, ta hãy phân tích từng pan một.

Pan đầu tiên là ở chính cái micro. Microphone dùng cho PA đều phải là loại tốt, thông thoáng, không bị bít hơi. Trên đầu micro sau màng nhún đều có những lỗ thoát hơi. Nếu những lỗ này bị bịt thì chắc chắn sẽ bị feedback, vì AT thu được sẽ bị cộng hưởng dội ngay trong micro. Nhiều ca sĩ dỏm cứ nhè những lỗ này mà bóp, bịt, soundman chết là cái chắc. Tuyệt đối không nên lấy micro của thu âm xử dụng cho live show. Chủng loại này vì cần thu direct cho nên hầu hết không thiết kế lỗ thoát hơi.

Micro dùng cho SK chuyên nghiệp thì phải đủ giải tần tuyến tính để khỏi phải chỉnh sửa âm sắc nhiều (sẽ nói ở phần sau). Khi đặt micro thì phải đặt ở hướng nào nó ít nghe thấy AT nhất, tránh đặt ở chỗ dễ cộng hưởng âm thanh như trước bức tường, góc khuất v.v. Loa monitor phải cố định ở vị trí đúng nhất, không hướng thẳng vào micro. Khi ca sĩ hát tới đoạn nghỉ thì nên lẹ tay tắt micro đó đi, phòng trường hợp ca sĩ này mỏi tay sẽ đưa micro hướng thẳng vào loa monitor. Micro Shure series Beta có thêm một cuộn dây ngược phase để giảm thiểu feedback.

Kế tiếp đến phần khuếch đại. Nếu hệ thống thiết bị của bạn đạt chuẩn, bạn set tất cả thiết bị về vị trí 0dB, không nâng hoặc giảm bất cứ một effect nào, những thiết bị không phải loại chỉnh sửa âm sắc tạm thời cho bypass. Rồi bạn cho chạy test thử, nếu như vậy mà bạn nghe được tốt thì hệ thống của bạn quá hoàn hảo, sẽ không bao giờ có feedback xảy ra, vì ở chế độ này các micro bị khống chế ở độ nhạy rất thấp, có đặt trước loa cũng không sao. Nhưng thực tế, khó có hệ thống nào được như vậy nên bạn phải chỉnh sửa. Nào! Hãy coi bạn thiếu cái gì nhé. 

Nếu thiếu về âm lượng, không đủ nghe thì bạn đã thiếu công suất của ampli và loa rồi, nếu cứ xử dụng tạm bằng cách nâng biến trở, nhiều quá thì chắc chắn sẽ sẽ bị feedback. Vậy trước hết, bạn cần tăng cường thêm phần công suất và loa tương ứng toàn bộ cho đến khi đủ nghe, càng dư thì càng tốt. 

Tiếp theo, cứ như thực tế, bạn cứ chỉnh sửa âm sắc theo kinh nghiệm của mình, micro và cả phát nhạc nữa. Phần tone trên mixer, các bands của equalizer và các thiết bị phụ trợ khác, nếu có bị feedback thì giảm công suất nhỏ lại và hoàn thành việc chỉnh sửa của mình đến mức tốt nhất mà bạn có thể làm được. Và khi xong bạn coi lại hệ thống của mình xem sao.

Xét trên EQ, band nào bạn thấy đã chỉnh giảm dưới mức 0dB thì giải tần đó dư, tạm thời bỏ qua. Giải nào phải nâng thì coi như bị thiếu công suất cho giải tần đó. Giới hạn cho việc nâng giải khoảng 3dB, nếu quá giá trị này bạn phải bù đắp cho công suất riêng ở giải đó. Nếu có band nào bị vượt quá +10dB là bạn phải cần công suất lên ít nhất gấp đôi mới đủ bù cho hệ thống. Số dB này tính tổng cộng tất cả các tone bạn đã nâng trong hệ thống (như tone của của mixer cũng phải tính vào).

Đến đây chắc bạn đã hiểu rằng: Khi bị feed back ở bất cứ giải tần nào thì hệ thống của bạn đã bị “thiếu” chứ không phải “dư”. Nhiều bạn nghĩ khi chỉnh sửa, ta hay cắt những giải hay bị feedback, như thế thì phải là dư, có dư mới cắt chứ. Hoàn toàn sai lầm rồi bạn ơi, vì khi cắt, ta mới chỉ mới trị chứ chưa sửa gì cả. 

Tôi xin thí dụ cho các bạn một trường hợp điển hình: SK ca nhạc Lan Anh ở SG, khai trương vào đầu năm 2001. Nơi này xử dụng loa Klipsch và ampli Kind. Không biết ông nước ngoài thiết kế ra làm sao mà giao hàng (tôi nhớ hình như) là 16 cặp full-range 12” mà chỉ có 2, 3 cặp lo-mid 15”. Kết quả là từ khi khai trương, bị feedback giải lo-mid trầm trọng, sáu tháng sau vẫn còn. Đấy là họ có đồ chơi rất đầy đủ nhé, không thiếu một món gì, mic dùng toàn Shure Beta87 chống feedback, soundman (bạn tôi) là một trong những người loại Top TP. Khi soundcheck, tôi đã phát giác ra sai lầm rồi, nhưng vì giao theo hợp đồng với công ty, không sửa lại được.

Trở lại vấn đề chính, nếu phải tăng công suất, thì có bạn nói hao tài chính quá. Nhưng đó là điều kiện ắt có và đủ để kiện toàn hệ thống AT của bạn. Vả lại, bạn chỉ tăng thêm một phần nhỏ, không phải toàn bộ. Trường hợp bất đắc dĩ, túi tiền hạn chế, khả dĩ bạn chỉ tăng thêm phần loa cho giải nào thiếu cũng tạm được. Thí dụ thùng loa full range, nhiều loại loa, bạn chỉ cần thêm loại loa nào thiếu, đóng thùng riêng, đấu parallel với loa chính của bạn, nhớ phải có crossover chính xác cho nó. Xử dụng nhiều thùng loa thì nên làm một way riêng, thêm ampli đi kèm đồng bộ.

Còn một cách nữa, ít hao xu hơn. Đó là bạn hãy giảm độ nhậy của micro, không cho nó thu được những tạp âm nữa. Việc này hơi phá cách, không đúng căn bản: Bạn giảm gain ở những tầng khuếch đại đầu (như send và fader của mixer), mỗi thứ một ít, rồi từ từ nâng những tầng sau (như ampli) cho đến khi công suất trước sau ngang nhau, sẽ thấy sự khác biệt rõ rệt. Cách này chỉ áp dụng được cho SK ca nhạc, ca sĩ hát thật gần micro. Kịch nói thì khác, cần độ nhậy, nên làm ngược lại, mở đầu, khóa đuôi.

Hệ thống AT của bạn phải hoàn toàn thông suốt, không bị tắc nghẽn ở chỗ nào cả. Bạn nên để ý check lại những thiết bị plug-in đã trang bị. Những thứ này, cái nào đấu nối tiếp rất quan trọng, cái nào đấu song song như effect thì bỏ qua.Check coi tổng trở tín hiệu in out có phù hợp hay không. Lọt vào một cái không phù hợp (như lấy thiết bị của Hifi, hay đồ TQ) là nghẽn ngay. Và thiết bị khác hãng sản xuất với nhau cũng chưa chắc đã phù hợp (chuyện này thì tôi đã bị thương đau rồi). Muốn test, rút 2 cặp jack XLR3 của thiết bị đó ra và cắm lại với nhau (không được bấm bypass, vì vẫn còn pre-amp), sẽ biết ngay là dùng có tốt không. Tín hiệu chạy trơn tru, bạn không phải nâng gain lên vì tắc nghẽn, micro không có độ nhậy, làm sao mà feedback được.

Nói tới kịch nói mới nhớ, tôi đã thiết kế một hệ thống AT cho SK kịch SàiGòn, rạp Vinh Quang năm 99. Thiết bị rất đơn giản: Mixer 24 Chls, EQ 2031, Feedback destroy đều của Behringer (tôi bán demo Behringer đầu tiên cho B. Dương), 2 ampli Crest-Audio, 2 cặp loa JBL, 935 cho mặt tiền, 925 cho phần sau. Xử dụng tất cả 8 micro Toa wireless. Soundman chỉ cần mở hết 8 micro rồi đi ngủ cũng được. Diễn viên nào ra chỉ cần bật switch micro rồi cứ tự nhiên diễn, ra hết 8 cái cũng không sao. Chỉ sợ có khi, ngoài kịch bản, diễn viên ôm nhau làm micro cộng hưởng mà thôi. Có sẵn feedback destroy mà cũng không cần xử dụng. AT lớn tới mức diễn viên trên SK cũng nghe lớn hơn họ đang nói, nên khỏi cần loa monitor, mà khán giả lên tới 600 người, đâu có ít. Rút kinh nghiệm lần đó, tôi mới biết AT đủ giải tần và thông suốt quan trọng đến ngần nào.

Bây giờ bàn tới cách trị cấp thời. Nếu thiết bị của bạn đơn giản thì làm theo cách xử lý rừng sau đây: Khi AT bắt đầu chớm bị feedback, bạn hãy lẹ tay kéo fader master cùa mixer xuống hết rồi đẩy lên ngay, nhưng không bằng mức cũ. Thí dụ đang ở 10, kéo xuống 0 rồi đẩy lên 9,5. Nếu chưa hết thì lại kéo xuống rồi lên 9, chừng nào hết thì thôi. Cách này, nếu lẹ tay thì không ai biết đã bị mất AT một khoảnh khắc, ngoài bạn. Âm lượng của AT dù có nhỏ đi một chút nhưng còn đỡ hơn hàng trăm cặp mắt đang nhìn bạn chăm chăm.

Nếu bạn có EQ thì dễ dàng hơn, chỉ cần nghe feedback ở giải tần nào thỉ cứ nhè fader của giải đó mà cắt cái bụp. Chỉ có khó là không biết ở đâu thôi. Một vài loại EQ như Behringer có thêm đèn LED báo Feedback (FBQ) trên cần gạt từng band nên rất tiện. Khi feedback, chỉ cần thấy đèn báo sáng chỗ nào thì kéo xuống, rất đơn giản. 

Feedback destroy là thiết bị chuyên dùng như tên gọi, có thể tự động dò giải tần feedback dùm, để bạn tùy nghi xử lý. Cách xử dụng cũng rất dễ, bạn nào có, đọc manual ắt biết. Còn có cách là dùng limiter (bộ hạn chế) để hạn chế biên độ của âm lượng, nhưng phải dùng loại chỉ limit từng giải đã ấn định trước, không dùng loại toàn giải, sẽ phá âm lượng của toàn bộ.

Nói chung, thiết bị để chống feedback thì rất nhiều, có loại rất hiện đại, chức năng như một máy tính có thể detect toàn bộ âm thanh của bạn, nếu có gì xảy ra là nó tự động xử lý ngay tức thì, khỏi phải lo nghĩ, nhưng giá tiền thì ở trên trời !!! Nhưng, thiết bị nào để chống feedback cũng vậy, sẽ làm giảm chất lượng AT đi ít nhiều. Các bạn cứ hoàn thiện hệ thống AT của mình như đã viết ở trên, làm sao cho nó không bị feedback là tốt nhất. Đã không có feedback thì lấy gì mà phải chống. Chúng ta dại gì mà làm giàu cho các hãng sản xuất thiết bị, phải không các bạn?

Cuối cùng, tôi xin kể cho các bạn nghe một câu chuyện vui có liên quan tới chủ đề của bài này. Sự việc nói về : khi đã có một giàn AT rất hoàn hảo, nhân lực operator thuộc bậc sư tổ, nhưng vẫn bị feedback như thường. 

Trong show Asia Music Festival được tổ chức tại rạp Hòa Bình năm 1997. Liên hoan này có nhiều ca sĩ đại diện nhiều nước châu Á tham dự. Chương trình biểu diễn do HTV quay, được phát trực tiếp trên toàn châu Á. Toàn bộ thiết bị AT AS được do một công ty VN mướn từ Singapore chở qua. Riêng AT thôi, thiết bị quá hùng hậu: Loa Apogee, ampli Crest Audio (sub dùng amp 10.000w), Mixer dùng 2 cái Yamaha 48 cnls PM4000 (của VN, nhập về 150.000USD/cặp), AS thì khỏi nói. Singapore và VN cùng lắp ráp, xong rồi thì có nguyên một team của Công ty Leo Music người Nhật vào operate. Đám soundman này thuộc loại ngoại hạng, nổi tiếng trên thế giới. Thế là anh em Việt + Sing (tôi cũng có trong đó) chỉ còn một cách là nghểnh cổ ngồi xem và học nghề từng chút của đám này. Show quan trọng nên tụi nó check rất kỹ. Thằng mon sound ôm 8 cây micro mở sẵn, đi hết vài chục cái loa monitor, chĩa thẳng vào xem có bị feedback không. Đến phần các ca sĩ từng nước lên ráp AT. Riêng ca sĩ Nhật lên SK thì tụi nó chăm chút rất kỹ, gà nhà mà. Từ cách đặt loa monitor cho tới khi hát, từng đoạn nhạc cũng được chỉnh âm sắc riêng. Chàng ca sĩ này hơi già, hát một bài tiếng Nhật trữ tình, tempo rất chậm. Qua vài lần dượt với ban nhạc Nhật mấy chục người, luôn cả tổng dượt, chương trình vẫn chạy hoàn hảo, không một chút sơ suất. 

Đến khi chính thức biểu diễn, ai mà thưởng thức show này đều thấy tuyệt vời. AT AS không chê được chỗ nào, cứ như trong mơ vậy. Gần giữa chương trình thì có một sự cố. Số là anh chàng ca sĩ người Nhật này, khi lên SK biểu diễn, chắc có lẽ thấy số khán giả quá đông, anh ta rất xúc động cố trình bày bài hát của mình không chỉ bằng giọng ca mà còn bằng điệu bộ. Bài hát thì trữ tình, truyền cảm nên có một lúc anh ta feeling phát ra những âm rất nhỏ nhẹ, sắc (chỗ này soundman phải tăng thêm nhiều âm lượng và tone hi-mid để khán giả có thể nghe rõ từng tiếng thở, uốn lưỡi), từ từ nhắm mắt lại, mơ màng, cánh tay buông thõng (rất phong cách). Nhưng chính cánh tay này lại đang cầm micro, chĩa thẳng vào loa monitor. Một tiếng “rét” của hệ thống loa gần 200.000w phát ra như sấm nổ. Chàng ca sĩ giật mình, mở mắt, chân tay luống cuống không biết để vào đâu. Khán giả thì cười rầm cả rạp. Cũng may, sắp tới đoạn hát tới nên anh ta trấn tĩnh và hoàn tất bài nhạc của mình suôn sẻ. Các bạn thấy đó, dù chuẩn bị có kỹ như thế nào cũng vẫn có thể bị khuyết điểm. Nhân định bất thắng thiên là vậy.
 

 

 

Chương 02 : Các lý thuyết cơ bản về âm thanh.



I / Định nghĩa về âm thanh.



Âm thanh trong thế giới tự nhiên (natural sound), đường biểu diễn bắt buộc phải là một hình sin cơ bản. Đó là những voice chúng ta nghe được chung quanh ta như những tiếng động, lời nói v.v , không phải do những thiết bị điện tử phát ra. Giải tần số mà con người nghe được nằm trong khoảng từ 20Hz đến 18KHz, nhưng cũng có ngoại lệ (tôi đã từng thử nghiệm thực tế có một soundman VN có thể nghe tới 24,5 KHz, rất hiếm có). Nhiều sinh vật khác như chó, mèo có thể nghe được giải tần cao hơn nhiều so với con người (siêu âm). 

Âm thanh hình sin là AT đơn giản, giống như phát ra ở máy phát sóng hạ tần. Những AT ta nghe thật ra là do nhiều họa tần chồng lên tạo thành. Bạn có thể vào window media player, nghe một bài nhạc bất kỳ rồi chọn bar and waves = Scope sẽ thấy được hình biểu diễn của những sóng AT này. 



Hình ảnh



Từ khi có những thiết bị điện tử, âm thanh nhân tạo bắt đầu hình thành. Khoảng đầu thập niên 70 những nhà sản xuất organ như hãng Yamaha đã dùng công nghệ chỉnh sửa âm thanh gốc tạo thành những AT không thể có trong thế giới tự nhiên. Từ những model organ như IC 30, rồi tới series SK bắt đầu tạo thành những lãnh vực âm thanh mới gọi là Synthesizer. Vậy là tùy hứng, ta có thể chỉnh, sửa, bẻ cái hình sin thành những hình bất kỳ nào, nếu muốn. Vuông, tròn, nhọn, răng cưa hoặc trên tròn dưới nhọn v.v đều ra một voice khác nhau, nhưng âm vực đều giống nhau là vì nó cùng chung một tần số. Bạn nào là nhạc công, nhạc sĩ có lẽ đã biết sự tương ứng giữa tần số AT và các nốt nhạc. Các nhạc cụ điện tử hiện đại hoặc những AT trong những bài disco là áp dụng của phương thức này, hoàn toàn không có trong thế giới tự nhiên.

Từ khi có kỹ thuật số ra đời, thì việc chỉnh sửa AT lại càng dễ dàng hơn, muôn hình vạn trạng. Nhưng chưa chắc sửa lại thì nghe hay hơn đâu. Các hãng sản xuất phải dày công nghiên cứu, thỉnh thoảng mới đưa ra được một công nghệ mới được.Thí dụ, bạn muốn AT nghe có cảm giác “dầy” hay “mỏng” hơn, thì có thể lấy BBE chỉnh cho cái hình sin có hai cạnh biên mập ra hay ốm bớt là xong. Còn muốn nghe “bén” một tí thì vuốt cái đầu hình sin cho nó nhọn hơn bằng một thiết bị khác. Còn nhiều cách khác, nhưng chung qui chỉ là xoay quanh chuyện chỉnh sửa cái hình sin đó thôi. Và cũng chính vì có thể chỉnh sửa được, mà có nhiều ca sĩ trong studio thì hát rất hay mà khi ra hát live thì nghe khác hẳn, là do AT live hầu như ít khi sửa, chỉ khuếch đại và điều tiết âm sắc. 

Độ sái giọng (méo tiếng) (distortion) là so sánh giữa tín hiệu hỉnh sin chuẩn input và output ra. Kỹ thuật cao cần độ distort dưới 1‰. Nếu bạn nhìn bằng oscilloscope mà thấy hình sin vừa hơi méo một tí là đã méo cả vài chục % rồi, phải có máy chuyên dùng mới đo được chính xác. AT mà nghe bể, rè, nghẹt là đã có sự distort ở tầng nào đó rất nhiều rồi, phải khắc phục nhược điểm này trước tiên.

Một thiết bị khác rất quan trọng là dây dẫn tín hiệu. Nếu sử dụng dây unbalance (1 giáp+1 ruột) thì không thể truyền đi xa được. Kéo dài sẽ bị giảm biên độ và giảm nhiều hơn ở tần số cao. Giảm biên độ còn xử lý được bằng cách nâng khuếch đại, nhưng giảm dải tần thì bó tay. Chưa kể còn dễ bị nhiễu (noise) bời những thiết bị khác và ngay cả trong sợi dây như tiếng vỗ dây chẳng hạn. Chỉ có thể giảm bớt khuyết điểm trên bằng cách hạ tổng trở Z của nguồn tín hiệu. Tuy tổng trở của microphone đã hạ thấp tới 200Ω và tín hiệu là 600Ω nhưng cũng chỉ giới hạn độ dài tối đa là 50 feet (16 mét). Về sau phát minh ra cách sử dụng dây balance (1 giáp+ 2 ruột) thì khuyết điểm trên mới hoàn toàn được khắc phục.

Tín hiệu đi trong dây balance gồm 1 phase + dẫn tín hiệu bình thường như dây 1 ruột. Dây còn lại là phase – có tín hiệu ngược phase đối xứng với phase +. Vì mang cùng lúc 2 tín hiệu này nên những tín hiệu nếu khác với 1 trong hai (như là noise) sẽ bị triệt tiêu. Sợi dây nào giảm biên độ sẽ có sợi kia bù lại khi dẫn tới thiết bị khác. Vì vậy, trên lý thuyết, dây balance có thể kéo dài tối đa tới 1000 feet (300 mét). 

Trước đây, thiết bị điện tử AT phải dùng biến áp loại nhỏ để tạo buffer balance cho các ngõ in out, sau này nhờ có op-amp nên đơn giản hóa đi nhiều. Trong một hệ thống âm thanh cũng cần chú ý khi hàn dây tín hiệu giao tiếp. Chỉ cần 1 sợi dây hàn ngược cực 2, 3 của jack XLR3 sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của cả hệ thống.

Lý thuyết về âm thanh thì đơn giản chỉ có vậy, nhưng rất quan trọng. Là soundman, bạn phải tìm hiểu thêm âm thanh là gì, rồi khi qua thiết bị này, thiết bị kia thì nó sẽ biến đổi ra sao ? Bạn hãy tự tập suy nghĩ có logic và sáng tạo. Lúc đó, bạn sẽ tự mình giải quyết được nhiều vấn đề về những kỹ thuật âm thanh khác mà tôi chưa thể viết ra ở đây.



II / Các thông số kỹ thuật.

Phần này bao gồm những thông số của các thiết bị AT giao tiếp với nhau nên cũng rất đơn giản, nhưng bạn cũng phải nắm rõ để setup hệ thống AT cho chính xác.

Trước hết là microphone. Tổng trở Z ấn định cho hầu hết các loại micro xử dụng cho AT là 200Ω, với độ nhậy (sensitivity) khoảng từ -40dB đến -20dB (có thể gia giảm chút ít tùy loại). Có vài loại micro đặc biệt (thường dùng trong studio) có tổng trở là 600Ω. Tần số đáp tuyến (frequency response) từ 40Hz đến 15KHz, loại condenser có thể lên tới 18KHz. Microphone xử dụng cho ampli đèn (tube amplifier) thì phải có Z bằng 50KΩ mới phù hợp.

Tín hiệu nhập của mixer ở ngõ mic input có độ nhạy rất cao, ở 200Ω vào khoảng -130dB đến + 20dB. Ngõ nhập line in thì lại khác : Z = 10KΩ nếu dùng unbalance, 20KΩ nếu dùng balance, độ nhạy từ -10 đến + 40dB. Các ngõ Tape/CD in cũng vậy, Z = 10KΩ, độ nhạy +20dB (tín hiệu output của player vào khoảng 100mV, 10KΩ). Ngoài ra, tất cả các giao tiếp khác đều dùng chuẩn 0dB làm mốc.

Nói qua về định nghĩa của chuẩn giao tiếp các thiết bị AT 0dB : 0dB là tín hiệu có điện áp 0.774 V RMS, tức là đo được 1 VAC khi đặt ở tổng trở Z = 600Ω. Chuẩn này dùng chung cho tất cả các thiết bị AT pro. Nhiều khi các bạn đọc manual thấy có sự khác biệt như Z chẳng hạn, có thể thấp hoặc cao hơn một chút (các hãng SX hay làm vậy cho có sự khác biệt). Nhưng bù lại, số dB cũng tăng hoặc giảm theo tỉ lệ nghịch tương ứng, nên vẫn tương thích kỹ thuật. Nếu có thể được, bạn nên dùng tất cả các thiết bị chung một hãng sản xuất, tránh phải lo nghĩ về vấn đề này.

Qua những thông số trên, các bạn đã thấy có sự khác biệt rất lớn giữa hai dòng máy pro sound và HiFi. Nếu vô tình dùng lẫn lộn, chẳng hạn lọt vào hệ thống một thiết bị EQ của HiFi, hậu quả sẽ không lường được.

 

 

 
Cấp nguồn điện cho hệ thống AT, AS.



Bất cứ một thiết bị AT AS nào cũng cần một nguồn điện cung cấp thật tốt, ổn định điện thế và cường độ. Thông thường, trong một show diễn, người phụ trách AS sẽ có trách nhiệm cung cấp nguồn cho toàn thể SK.



Nguồn cung cấp điện (power source) phải được lấy từ nguồn chính của nơi tổ chức biểu diễn (Cách tính tiết diện dây cáp điện, ngắt điện tự động CB xin để một bài khác). Nếu show quan trọng, nên tăng cường thêm vài nguồn từ máy phát điện để dự phòng nguồn điện lưới hạ thế bị ngắt đột ngột. Ở SK VN, nguồn điện cung cấp cho hệ thống AS xử dụng khoảng 200 PAR 64 cộng các thiết bị khác ước lượng chừng 300KVA (tương đương 300.000w ≈ 1.400 Amps). Cách tính này có thể gia giảm tỉ lệ thuận tùy theo số lượng PAR thực tế.



Thiết bị chính để quản lý nguồn điện là electric power-rack (tủ điện). Nguồn điện cung cấp cho tủ này gồm 5 dây cáp : 3 dây line (hot, nóng), 1 dây neutral (nguội, trung tính) và 1 sợi dây ground (đất, terre). Bộ ngắt điện chính là CB tổng (main circuit-breaker). Nên dùng loại thermo (nhiệt, TCB), thời gian ngắt tự động lâu hơn loại magnetic (từ, MCB) quá nhậy với những xung điện nhỏ, đôi khi ngắt sai làm ảnh hưởng tới chương trình biểu diễn.



Trước và sau CB tổng, chia riêng cho mỗi phase nóng là 2 đồng hồ đo điện thế và cường độ (AC volt, amp meter). Những đồng hồ này dùng để cân phase (phase balance) khi thử tải và theo dõi kiểm tra trong khi biểu diễn. Nếu dây nguồn bắt buộc phải kéo dài hơn vài trăm mét, bạn nên tăng cường thêm cho tủ điện một tụ điện bù phase có thông số tương thích với nguồn tải để ổn định dòng điện, hạn chế tăng nhiệt dây cable kéo điện. Trong tủ điện là những CB chia nguồn cho các hệ thống khác như AT, Power-pack v.v.



Sau khi lắp ráp xong tất cả các thiết bị AT AS, phải check nguồn điện bằng cách thử tải (power-check). Bạn khởi động tất cả CB trong hệ thống, rồi đẩy tất cả fader của đèn của hệ thống AS lên full 100% tối thiểu là 2 phút. Nếu không có sự cố xảy ra, đồng hồ báo dòng của cả 3 phase đều cân bằng (chênh nhau không quá 10%), tất cả dây dẫn điện không có dấu hiệu tăng nhiệt là hệ thống nguồn tốt. Nếu có trục trặc phải sửa ngay, cân phase và check lại từ đầu. Sau đó đến phần check các nguồn điện phụ, thao tác của mỗi nguồn cũng như trên. Để ý các cầu giao đảo điện, vì chỉ có 3 phase nên các dây neutral của mỗi nguồn phải được đấu vào nhau thật chắc chắn. Có khi vì lý do nào đó mất nguồn neutral, sẽ xảy ra trường hợp phase nào tải nặng hơn thì sụt áp, phase nào nhẹ tải thì tăng áp bù lại (có thể lên tới 380V), rất nguy hiểm cho các thiết bị AT AS.



Lắp đặt dây đất (ground) cũng không kém phần quan trọng. Thông thường thì lấy nguồn ground tại nơi cung cấp nguồn điện chính. Nếu không có thì bắt buộc phải đóng cọc đất tại ngay nơi đặt tủ điện: đóng 4 cọc dài 2,5 mét bằng sắt mạ đồng (có bán sẵn) thành hình vuông cạnh 1 mét sau khi đã đổ nước muối làm ẩm đất. Đấu chung lại với nhau làm thành nguồn ground cung cấp cho các thiết bị. Trường hợp bất đắc dĩ, chưa chuẩn bị trước được, có thể tìm những kết cấu bê tông của nơi tổ chức biểu diễn như cầu thang sắt, cửa sắt v.v, tìm cách đấu nối thật chắc chắn (ốc xiết cáp, hàn cadwell). Thông số kỹ thuật cho một nguồn ground hoàn hảo : Đo được < 4Ω giữa nguồn ground và neutral (TCVN1985), đo bằng thiết bị chuyên dùng (Megaohm-meter).



Đã là AT AS chuyên nghiệp thì bắt buộc bạn phải thiết kế dây tiếp đất cho hệ thống thiết bị của bạn. Sau đây là những lý do tại sao phải cần dây tiếp đất:



-Tránh rò rỉ điện thế ra vỏ của các thiết bị. Khi bị nhẹ thì microphone cầm tay sẽ bị ảnh hưởng trước tiên, ca sĩ có thể bị điện giật. (Show quốc tế mà không có tiếp đất, Tây nó không chịu diễn đâu).



-Các CB sẽ dễ tự động ngắt hơn khi có sự rò rỉ hay chạm mạch. An toàn điện tối đa.



-Các dimmer-pack của AS, khi dùng khoảng một nửa công suất sẽ tạo ra nhiều xung điện nhiễu. thường thì trong mỗi dimmer-pack sẽ có một mạch chống xung dao động bằng cuộn shock và tụ điện. Nhưng đôi khi nó cắt không hết, tạo xung nhiễu vào nguồn điện. Mixer AT, vì ngõ input mở đầu rất nhạy nên sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, sẽ có những voice, noise ngoài ý muốn.



-Tạo ra một lớp giáp bảo vệ nguồn tín hiệu AT. Không có thiết bị ngoại vi nào (motor, bộ đàm v.v) xâm nhập vào hệ thống được.



Vì công suất quá lớn, các thiết bị AS bao giờ cũng lấy điện trực tiếp từ nguồn chính, riêng AT thì cần nguồn tốt hơn nên đôi khi cần thêm những thiết bị ổn định điện thế. Nếu điện thế tăng giảm qua mức ± 20% điện thế ấn định, nên dùng biến thế tự ngẫu (survolteur) công suất lớn để điều chỉnh điện thế gần bằng mức bình thường là được. Các thiết bị pre-amp pro thì đã có sẵn regulator ngay trong nó rồi thì có hay không ổn áp thêm cũng không cần thiết lắm.



Tiện đây, xin nói qua về những thiết bị ổn áp bán trên thị trường VN, loại tự động bằng cách quay chổi than. Nếu điện thế không ổn định, bạn dùng cho các thiết bị pre-amp, dòng tiêu thụ nhỏ, thì không sao. Nhưng nếu bạn cấp cho amplifier, dòng điện tiêu thụ lớn lại tăng giảm đột ngột theo tiếng nhạc, nhất là sub bass, bộ regulator của ổn áp phải hoạt động liên tục, motor quay chổi than cũng vậy, rất mau hư. Chổi than cũng mau mòn, sinh kẹt, nếu hư ở điểm tăng áp thì rất nguy hiểm cho các thiết bị. Xử dụng các thiết bị ổn áp này cũng nên cẩn thận.



Với những dòng thiết bị AT cao cấp (như trong studio), đòi hỏi nguồn điện thật sạch, an toàn, thì có một thiết bị cấp nguồn đặc biệt là Power conditioner (điều hòa năng lượng) mà điển hình là của hãng Furman. Thiết bị ổn áp này rất tuyệt vời, gọn nhẹ (rack mount 1U), nguồn ra an toàn cho các thiết bị AT cao cấp, cách ly tuyệt đối với điện lưới hạ thế, mạch auto shut down khi điện áp cao quá ngưỡng, xử dụng tần số cao làm mạch dao động và nhiều tính năng đặc biệt khác. Vì có thêm 2 đèn pull-out nên thường được thiết kế trong rack máy, nơi cao nhất. Dòng ra nhỏ (max20 Amps) nên chỉ dùng cho pre-amp. (Minh họa)



Hình ảnh

Hình ảnh
 
Cấp nguồn điện cho hệ thống AT, AS.



Bất cứ một thiết bị AT AS nào cũng cần một nguồn điện cung cấp thật tốt, ổn định điện thế và cường độ. Thông thường, trong một show diễn, người phụ trách AS sẽ có trách nhiệm cung cấp nguồn cho toàn thể SK.



Nguồn cung cấp điện (power source) phải được lấy từ nguồn chính của nơi tổ chức biểu diễn (Cách tính tiết diện dây cáp điện, ngắt điện tự động CB xin để một bài khác). Nếu show quan trọng, nên tăng cường thêm vài nguồn từ máy phát điện để dự phòng nguồn điện lưới hạ thế bị ngắt đột ngột. Ở SK VN, nguồn điện cung cấp cho hệ thống AS xử dụng khoảng 200 PAR 64 cộng các thiết bị khác ước lượng chừng 300KVA (tương đương 300.000w ≈ 1.400 Amps). Cách tính này có thể gia giảm tỉ lệ thuận tùy theo số lượng PAR thực tế.



Thiết bị chính để quản lý nguồn điện là electric power-rack (tủ điện). Nguồn điện cung cấp cho tủ này gồm 5 dây cáp : 3 dây line (hot, nóng), 1 dây neutral (nguội, trung tính) và 1 sợi dây ground (đất, terre). Bộ ngắt điện chính là CB tổng (main circuit-breaker). Nên dùng loại thermo (nhiệt, TCB), thời gian ngắt tự động lâu hơn loại magnetic (từ, MCB) quá nhậy với những xung điện nhỏ, đôi khi ngắt sai làm ảnh hưởng tới chương trình biểu diễn.



Trước và sau CB tổng, chia riêng cho mỗi phase nóng là 2 đồng hồ đo điện thế và cường độ (AC volt, amp meter). Những đồng hồ này dùng để cân phase (phase balance) khi thử tải và theo dõi kiểm tra trong khi biểu diễn. Nếu dây nguồn bắt buộc phải kéo dài hơn vài trăm mét, bạn nên tăng cường thêm cho tủ điện một tụ điện bù phase có thông số tương thích với nguồn tải để ổn định dòng điện, hạn chế tăng nhiệt dây cable kéo điện. Trong tủ điện là những CB chia nguồn cho các hệ thống khác như AT, Power-pack v.v.



Sau khi lắp ráp xong tất cả các thiết bị AT AS, phải check nguồn điện bằng cách thử tải (power-check). Bạn khởi động tất cả CB trong hệ thống, rồi đẩy tất cả fader của đèn của hệ thống AS lên full 100% tối thiểu là 2 phút. Nếu không có sự cố xảy ra, đồng hồ báo dòng của cả 3 phase đều cân bằng (chênh nhau không quá 10%), tất cả dây dẫn điện không có dấu hiệu tăng nhiệt là hệ thống nguồn tốt. Nếu có trục trặc phải sửa ngay, cân phase và check lại từ đầu. Sau đó đến phần check các nguồn điện phụ, thao tác của mỗi nguồn cũng như trên. Để ý các cầu giao đảo điện, vì chỉ có 3 phase nên các dây neutral của mỗi nguồn phải được đấu vào nhau thật chắc chắn. Có khi vì lý do nào đó mất nguồn neutral, sẽ xảy ra trường hợp phase nào tải nặng hơn thì sụt áp, phase nào nhẹ tải thì tăng áp bù lại (có thể lên tới 380V), rất nguy hiểm cho các thiết bị AT AS.



Lắp đặt dây đất (ground) cũng không kém phần quan trọng. Thông thường thì lấy nguồn ground tại nơi cung cấp nguồn điện chính. Nếu không có thì bắt buộc phải đóng cọc đất tại ngay nơi đặt tủ điện: đóng 4 cọc dài 2,5 mét bằng sắt mạ đồng (có bán sẵn) thành hình vuông cạnh 1 mét sau khi đã đổ nước muối làm ẩm đất. Đấu chung lại với nhau làm thành nguồn ground cung cấp cho các thiết bị. Trường hợp bất đắc dĩ, chưa chuẩn bị trước được, có thể tìm những kết cấu bê tông của nơi tổ chức biểu diễn như cầu thang sắt, cửa sắt v.v, tìm cách đấu nối thật chắc chắn (ốc xiết cáp, hàn cadwell). Thông số kỹ thuật cho một nguồn ground hoàn hảo : Đo được < 4Ω giữa nguồn ground và neutral (TCVN1985), đo bằng thiết bị chuyên dùng (Megaohm-meter).



Đã là AT AS chuyên nghiệp thì bắt buộc bạn phải thiết kế dây tiếp đất cho hệ thống thiết bị của bạn. Sau đây là những lý do tại sao phải cần dây tiếp đất:



-Tránh rò rỉ điện thế ra vỏ của các thiết bị. Khi bị nhẹ thì microphone cầm tay sẽ bị ảnh hưởng trước tiên, ca sĩ có thể bị điện giật. (Show quốc tế mà không có tiếp đất, Tây nó không chịu diễn đâu).



-Các CB sẽ dễ tự động ngắt hơn khi có sự rò rỉ hay chạm mạch. An toàn điện tối đa.



-Các dimmer-pack của AS, khi dùng khoảng một nửa công suất sẽ tạo ra nhiều xung điện nhiễu. thường thì trong mỗi dimmer-pack sẽ có một mạch chống xung dao động bằng cuộn shock và tụ điện. Nhưng đôi khi nó cắt không hết, tạo xung nhiễu vào nguồn điện. Mixer AT, vì ngõ input mở đầu rất nhạy nên sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, sẽ có những voice, noise ngoài ý muốn.



-Tạo ra một lớp giáp bảo vệ nguồn tín hiệu AT. Không có thiết bị ngoại vi nào (motor, bộ đàm v.v) xâm nhập vào hệ thống được.



Vì công suất quá lớn, các thiết bị AS bao giờ cũng lấy điện trực tiếp từ nguồn chính, riêng AT thì cần nguồn tốt hơn nên đôi khi cần thêm những thiết bị ổn định điện thế. Nếu điện thế tăng giảm qua mức ± 20% điện thế ấn định, nên dùng biến thế tự ngẫu (survolteur) công suất lớn để điều chỉnh điện thế gần bằng mức bình thường là được. Các thiết bị pre-amp pro thì đã có sẵn regulator ngay trong nó rồi thì có hay không ổn áp thêm cũng không cần thiết lắm.



Tiện đây, xin nói qua về những thiết bị ổn áp bán trên thị trường VN, loại tự động bằng cách quay chổi than. Nếu điện thế không ổn định, bạn dùng cho các thiết bị pre-amp, dòng tiêu thụ nhỏ, thì không sao. Nhưng nếu bạn cấp cho amplifier, dòng điện tiêu thụ lớn lại tăng giảm đột ngột theo tiếng nhạc, nhất là sub bass, bộ regulator của ổn áp phải hoạt động liên tục, motor quay chổi than cũng vậy, rất mau hư. Chổi than cũng mau mòn, sinh kẹt, nếu hư ở điểm tăng áp thì rất nguy hiểm cho các thiết bị. Xử dụng các thiết bị ổn áp này cũng nên cẩn thận.



Với những dòng thiết bị AT cao cấp (như trong studio), đòi hỏi nguồn điện thật sạch, an toàn, thì có một thiết bị cấp nguồn đặc biệt là Power conditioner (điều hòa năng lượng) mà điển hình là của hãng Furman. Thiết bị ổn áp này rất tuyệt vời, gọn nhẹ (rack mount 1U), nguồn ra an toàn cho các thiết bị AT cao cấp, cách ly tuyệt đối với điện lưới hạ thế, mạch auto shut down khi điện áp cao quá ngưỡng, xử dụng tần số cao làm mạch dao động và nhiều tính năng đặc biệt khác. Vì có thêm 2 đèn pull-out nên thường được thiết kế trong rack máy, nơi cao nhất. Dòng ra nhỏ (max20 Amps) nên chỉ dùng cho pre-amp. (Minh họa)



Hình ảnh

Hình ảnh
 

 

 
V / Các thiết bị tăng âm (amplifier).



Các thiết bị tăng âm (amplifier) là những thiết bị điện tử cuối cùng trước khi ra hệ thống loa. Nói đơn giản, nó là thiết bị chuyển tín hiệu AT từ 0 dB thành năng lượng có thể rung được màng loa (biến đổi điện năng thành cơ năng) để có thể nghe được. Trước đây, ampli thường được chế tạo bằng transistor đơn thuần, hiện nay hầu hết làm bằng công nghệ mosfet nên chất lượng rất cao. Công suất phát ra của dòng ampli pro từ vài trăm watt đến vài ngàn watt, có thể lên tới 10.000w RMS (từ RMS sẽ giài nghĩa sau ở phần khác) như của hãng Crest Audio.



Hình ảnh



Crest Audio Amplifier 8.000w.



Thông thường, ampli là stéreo nghĩa là 2 channel ampli trong 1 gọi là left, right,1, 2 hay A, B. Tín hiệu ngõ vào danh định là 0 dB, có thêm 1 biến trở để có thể gia giảm. Tổng trở (Z) của ngõ ra loa là 8 Ω. Khi sử dụng loa có tổng trở càng thấp thì công suất của ampli lại càng cao. Thí dụ ampli sẽ có công suất 1.000w khi ở 8 Ω, nhưng nếu bạn dùng loa 4 Ω thì công suất ampli sẽ là 2.000w, tăng theo tỉ lệ nghịch. Thấp nhất tối thiểu là 2 Ω. Khi bạn đọc công suất của ampli thì bạn phải biết rõ công suất RMS ở tổng trở nào mới là đúng.



Công suất danh định của ampli được tính bằng công thức P = U² ⁄ Z với độ méo tiếng (distortion) nhỏ hơn 1‰, với tần số 1KHz. Trong đó U là điện thế đo được ở ngõ ra ampli tính bằng volt, Z là tổng trở tải. Như vậy, khi nói công suất của 1 ampli là 100w ở 4 Ω thì điện thế đo được ở ngõ ra loa bắt buộc phải lớn hơn 20 volt.



Với SK hiện đại ngày nay thường sử dụng nhiều hệ thống loa cho 1 bên SK, tương ứng cũng rất nhiều ampli được sử dụng. Thông thường thì 1 bên (channel) của ampli dùng cho 1 loa gọi là cách stereo (stéreo mode). Nhưng có thể khai thác tối đa công suất của ampli bằng cách đấu dây 2 loa song song (parallel) làm hạ tổng trở Z ra của ampli. Cách này thường dùng cho hệ đấu loa 4 Ω, thấp nhất là 2 Ω.



Hơn thế nữa, bạn có thể đấu dây của cọc xuất ra của ampli theo cách “cầu” (bridge mode). Đây là cách làm cho 2 channels của ampli như là chồng nối tiếp lên nhau, công suất có thể tăng gấp 4 lần so với 1 channel. Khuyết điểm của cách này là tổng trở ngõ ra cao gấp đôi, hạ thấp nhất là 4 Ω nên khó giảm tổng trở của loa.



Riêng chỉ có hãng Crown của Mỹ (còn có tên là Amcron) còn có thêm cách là đấu song song (parallel mode) 2 channel của ampli làm một. Cách này có thể hạ tổng trở xuống 2 Ω(có model tới 1Ω), ngược với đấu cầu. Với 2 cách Bridge mode và Parallel mode, ngõ vào tín hiệu của amli chỉ sử dụng được 1 (left hay right, A hay B tùy hãng sản xuất) vì lúc này nó chỉ là 1 ampli mono.



Sau đây là 1 thí dụ sự thay đổi tương ứng giữa cách đấu channel ampli + tổng trở loa và công suất đạt được :



Với ampli 500w stereo danh định ( 250w mỗi bên ở 8 Ω) sẽ có nhiều loại công suất nếu bạn dùng cách thay tổng trở.



-Stereo mode : 500w at 4 Ω, 1.000w at 2 Ω.(per channel)



-Bridge mode : 1.000w at 8 Ω, 2000w at 4 Ω. (per ampli)



-Parallel mode : 2000w at 4 Ω, 4.000w at 2 Ω. (per ampli)



Các hãng sản xuất thường lấy công suất cách đấu lớn nhất làm công suất của ampli nên khi sử dụng bạn phải coi kỹ.



Các cọc ra loa thường là cọc quả chuối (banana post) gồm hai cọc đỏ, đen cho mỗi channel tương ứng +, - của từng channel. Bạn nhớ đấu dây đúng cho hệ thống loa theo + - nhé. Dưới đây là hình minh họa 3 cách đấu channel, nhớ bật switch tương ứng nhé.



Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh



Đến đây bạn phần nào hiểu rõ sự quan trọng giữa công suất ampli và tổng trở loa rồi. Còn một phần quan trọng không kém là dây loa. Với dây loa tiết diện 1 mm2, trên 1 mét dây đôi, điện trở trong R của nó đo được gần 0.5Ω. Vậy nếu bạn dùng 8 mét dây loa cho loa 4Ω của bạn, coi như bạn đã bị mất 1 nửa công suất tải trên sợi dây loa rồi đó. Giảm thiểu khuyết điểm này, bạn phải dùng dây loa tiết diện lớn nhất có thể có hoặc thu ngắn chiều dài lại, đặt ampli càng gần loa càng tốt. Các thiết bị điều khiển khác, nối với ampli bằng dây tín hiệu balance thì có dài cũng không sao. 1 mét dây loa làm sao sánh được hàng trăm watt công suất phải không các bạn?



Như đã nói ở các bài trên, không có ampli nảo đáp ứng được mọi giải tần nghe được của AT. Có vài loại khá full như series CA của Crest Audio, Dynacord v.v nhưng mắc tiền và hình như họ có filter nên công suất yếu. Với SK chuyên nghiệp, hệ thống loa có nhiều way, bạn nên dùng loại ampli cho từng loại loa mà hãng đó khuyến cáo. Thí dụ như với ampli Crown và loa JBL, model 800 dùng cho loa high và super high, 2400 và 3600 cho mid và lo mid, sub bass thì phải dùng 5000 là đúng nhất.

 

VI/ Các thiết bị phát âm (loa)(speaker).





Loa là thiết bị AT làm biến đổi điện năng từ amplifier thành cơ năng, dao động màng loa phát ra âm thanh. Nó gồm một số vòng dây (coil) kim loại bọc emay nằm giữa một từ trường do một nam châm vĩnh cửu (>16.000gausse) tạo ra. Vòng dây này được gắn liền với một màng rung tạo âm, chất liệu màng này có thể bằng giấy bồi, kim loại (nhôm), cao su v.v tùy thuộc hãng sản xuất. Khi có dòng điện đa tần từ ampli làm vòng dây và màng rung theo. Tất cả được một khung sườn làm cố định tất cả làm thành loa hoàn chỉnh.



Hình ảnhHình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnhHình ảnh



Khi muốn đáp tuyến tần số của loa cao hơn, thì đổi chất liệu của màng loa thành fiber hoặc nhôm. Đặc biệt có loại loa làm bằng gốm (ceramic) áp điện phát ra tần số siêu cao nhưng công suất chịu đựng rất nhỏ nên không thông dụng.

Hình ảnhHình ảnh



Loại super high :



Hình ảnhHình ảnh



Để tiện dụng, không chiếm không gian có hãng còn sản xuất loại loa 2,3 trong 1 như sau:

Hình ảnhHình ảnh



Kích thước của một cái loa (chưa có thùng) thì vô chừng, nó có thể nhỏ bằng đồng xu như loa gốm và lớn thì tới nỗi phải chở bằng xe tải 18 bánh. Tên gọi bằng đường kính của khung loa tính bằng inch như 10”, 12”, 15”, 18” và ở VN hay gọi tương ứng bằng 2,5 tấc, 3 tấc, 4 tấc và 5 tấc cũng chưa xác định hết tất cả các loại loa. 



Công suất chịu đựng của loa ấn định bởi lực từ trường của nam châm vĩnh cửu và sức chịu nhiệt của vòng dây. Khi quá tải, điện năng áp vào vòng dây không còn sinh thêm ra cơ (động) năng nữa sẽ sinh ra nhiệt năng (nguyên lý bảo toàn năng lượng) làm coil tăng nhiệt và cháy. 



Công suất của loa pro thường được tính theo công suất thực RMS (Root Mean Square). Như đã viết ở phần amplifier, công suất danh định theo công thức P = U² / Z chỉ là công suất đo được với độ méo tiếng < 1‰. Nhưng vì nó là dòng điện xoay chiều hình sin, nên công suất thực tế RMS tính bằng watt chỉ bằng khoảng 0.774 công suất đo được (danh định). Nhiều nhà sản xuất còn phân biệt 2 loại công suất RMS của loa là Continuous (liên tục) và Peak (đỉnh). 



Thông số của loa được tính bằng tổng trở Z (impedance), thường là 4, 8 và 16Ω. Cần phân biệt giữa Z (tổng trở) và R (điện trở). Z được đặt bởi nhà sản xuất tính theo chất liệu của coil và độ từ thông của nam châm. Khi nói loa có tổng trở 8Ω, thật sự điện trở R đo được dao động khoảng 5,6Ω. Tổng trở càng cao, loa dễ đáp ứng tần số thấp hơn, và ngược lại.



Chuẩn giá trị chất lượng của loa được tính bằng số dB đo được ở khoảng cách xa loa 1mét, khi truyền vào loa 1 tín hiệu có công suất 1 watt RMS với tần số 1 KHz, không có thiết bị cộng hưởng AT kèm theo. Cách tính này chỉ đúng một cách tương đối, không thể căn cứ để đánh giá trị của loa được.



Nói về các loại loa. Loa có màng càng lớn thì sẽ cho ra âm trầm nhiều hơn và ngược lại. Loa đáp ứng được dải tần số rộng gọi là loa full- range, thực tế ít có loa nào đáp ứng được điều này. Loại loa hình Oval (bầu dục, hột xoài) vì hình dáng của nó vừa có cạnh hẹp lại có cạnh rộng, nghĩa là vừa có bass lại có treble. Nhưng công suất của loại này thấp nên chỉ dùng cho dòng Hi-Fi, TV và xe ôtô thôi.



Hình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnhHình ảnh



Thiết bị quan trọng không kém loa là thùng loa. Đây là thiết bị hỗ trợ cho loa tăng thêm công suất phát âm và cố định loa. Trước hết thùng loa phải chắc chắn, có tính thẩm mỹ, cộng hưởng với loa trầm tốt. Mẫu mã là do các nhà sản xuất tạo ra tùy theo công dụng. Loa mid-range thường có thêm chóa (còi) còn gọi là Horn hình dáng như cái tù và để định hướng và khuyếch đại AT. Loại có AT cao hơn là tweeter hay super high. Đôi khi có thêm một màng kim loại chắn trước loại này để dịu bớt những âm sắc khó chịu.



Hình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnh



Dưới đây là hình chụp loa sub bass JBL 4719A và full-range JBL 4732 không gắn loa để các bạn hình dung.



Hình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnh



Riêng loại thùng dùng cho monitor đặt trên SK thì có thể đặt theo nhiều góc độ để người nghe được thuận tiện nhất.



Hình ảnhHình ảnh



Trong một thùng loa có thể có nhiều loại khác nhau. Ngoại trừ như đã nói ở bài trên, dùng Electronic Crossover (bộ chia tần số điện động) chia công suất ampli cho từng loại loa. Có thể đơn giản hơn dùng Mechanic Crossover (bộ chia loa cơ học). Mạch LC gồm những linh kiện cuộn dây và tụ điện kết hợp. Sau đây là hình chụp một mạch crossover chia 3 way (1 input -> 3 output) tự chế.



Hình ảnh



Khi đấu dây loa, nhớ gắn đúng 2 cực dương và âm (+ -) mà nhà sản xuất đã đánh dấu bằng 2 màu đen và đỏ. Trường hợp mất dấu, không xác định được 2 cực, có thể dùng nguồn pin 9VDC quẹt nhẹ vào cực loa và đổi chiều dòng điện. Chiều nào nguồn điện tác động vào màng loa đẩy ra thì theo hai cực của pin mà đánh dấu. Riêng loa từ mid trở lên vì màng cứng, không phân biệt được chiều màng đẩy ra, chi còn cách dùng thiết bị chuyên dùng đo phase mà thôi.



Việc đấu dây đúng cực rất quan trọng. Nếu chỉ có 1 loa hoặc loa đặt xa nhau, nếu có đấu sai cực cũng không ảnh hưởng gì nhiều. Nhưng trong SK chuyên nghiệp, việc sử dụng rất nhiều loa giống nhau, phát cùng một tần số là thông dụng. Một nguyên lý về âm học : Khi hai âm thanh có tần số giống nhau nhưng nghịch phase đặt gần sát bên nhau, âm lượng phát ra sẽ cộng hưởng đối xứng và sẽ bị “triệt tiêu”. Các bạn thấy điều này cực kỳ quan trọng phải không? Vậy khi đấu dây loa, bạn nhớ chú ý nhé.



Hình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnhHình ảnh

Hình ảnhHình ảnh



Đến đây là hết chương 1 giới thiệu những thiết bị AT SK. Chương kế tiếp là những phần thông số và hướng dẫn một số kỹ thuật AT. Hết loạt bài về AT cơ bản này, tôi xin giới thiệu với các bạn 1 đĩa DVD dài 75 phút hướng dẫn những thao tác thực tế để setup một dàn AT chuyên nghiệp. DVD này có tựa đề : “How to run your PA system” do nhiều hãng sản xuất thiết bị AT như JBL, Shure, Soundcraft, ART, v.v hợp tác làm. Mời các bạn nhớ đón xem.

 

III/ Cách vận hành các thiết bị (1).

Trong phần này, có rất nhiều thiết bị nên phải chia làm nhiều đoạn, mỗi post chỉ viết về một vài mục.



Trước hết, các bạn hãy xem sơ đồ dưới đây để hiểu về cách vận hành của hệ thống AT SK cơ bản.



Hình ảnh



Qua sơ đồ trên, tín hiệu input đưa vào mixer sẽ được trộn đều và xuất ra bằng 2 ngã main out (stereo out) xuống Equalizer, 2 cái đơn hoặc 1 cái đôi. Sau khi rời EQ, tín hiệu nhập thẳng vào crossover ( các loại effect khác, nếu có, cũng mắc rẽ nối tiếp ở đây, trước khi vào crossover).



Từ crossover, tín hiệu chia làm 2, Hi được đưa vào ampli của loa full-range. Nếu hệ thống dùng nhiều way thì cũng đấu ampli như vậy. Ngã ra Lo thì lấy 1 channel của compressor và nối xuống sub bass ampli. Bạn muốn loa sub chạy stereo thì dùng cả 2 chnls của compressor. Nhưng ở sơ đồ trên, theo kinh nghiệm chung của giới AT, bạn nên cho sub chạy theo chế độ mono, nghĩa là chỉ xử dụng 1 bên của crossover và compressor đưa xuống ampli, đấu chung 2 chnls lại và xuất ra loa. Điều này để tránh tiếng ồn do cộng hưởng bởi 2 chnls sub nếu tín hiệu khác nhau mang lại. Còn dư 1 bên của compressor để dùng cho chuyện khác, insert vào mixer để chỉnh tiếng kích của trống chẳng hạn.



Ở trên mixer, bạn lấy tín hiệu từ ngã aux out đưa vào 1 EQ đơn và dùng ampli monitor làm công suất cho các loa monitor trên SK. Nếu dùng 2 hệ thống monitor, ca sĩ và ban nhạc riêng, bạn dùng thêm một đường aux 2 nữa, cũng qua EQ và ampli như aux 1.



2 effect thì dùng đường aux send và aux return của 2 aux kế tiếp 3 và 4. Noise- gate thì dùng đường insert phone jack ¼” của mỗi input chnl của mixer. Thiết bị này chuyên dùng để chỉnh sửa tiếng trống jazz cho rõ tiếng, gọn gàng.



-Mixer:



Như tên gọi, mixer (nếu có trên 20 chnls thì thường gọi là mixing console) là thiết bị dùng để trộn tất cả các tín hiệu AT, khuếch đại, chỉnh sửa và xuất sang những thiết bị khác bằng nhiều ngã khác nhau. Vì đã giới thiệu những tính năng của mixer trong phần trước, trong phần này chỉ nói về cách vận hành.



Sau khi đã set tất cả các thiết bị AT đúng theo sơ đồ nguyên lý trên, bạn kiểm tra lại cho thật chắc rồi bắt đầu khởi động hệ thống. 



Trên mixer, bạn tắt tất cả những biến trở chỉnh âm lượng (gain, aux send, chnl fader, groups, aux return, master v.v) về zéro. Những biến trở chỉnh âm sắc và panpot (balance) thì set ở giữa, flat hay 0dB. Tất cả EQ, Effect, Crosover, Compressor, Amplifier cũng vậy, biến trở âm lượng đều tắt.



Bạn nối một player (CD, MD) vào một channel stereo tape in trên mixer, cho disk sound check mà bạn quen dùng nhất vào rồi cấp nguồn cho mixer và tất cả các thiết bị, ngoại trừ ampli sẽ cấp nguồn sau cùng.



Bạn set fader của chnl tape in ở mức 0dB, bấm sw on (mute) và bấm sw stereo (chưa xử dụng sw group), sau đó set 2 (có thể chỉ 1) fader của Master out ở mức 0dB.



Cho disk player chạy, từ từ nâng biến trở gain (trim), theo dõi đồng hồ (LED) hiển thị master VU metter cho đến khi nó dừng ở mức 0dB, không để lố qua vạch đỏ. Nếu hai bên left, right không cân bằng, có thể điều chỉnh lại bằng biến trở panpot.



Sang EQ và các thiết bị khác, tuần tự từng cái một. EQ thì set tất cả các band giải tần ở giữa, mức flat, có thể bấm bypass để vô hiệu hóa phần chỉnh sửa. Volume thì nâng lên cho tới khi đèn VU báo ở 0dB. Nếu EQ chuẩn thì mức tín hiệu sẽ ở giữa 0dB, có thể gia giảm đôi chút. Crossover cũng vậy, chỉnh volume ở 0dB, cả hai giải Hi và Lo. Riêng tần số cut của sub bass, bạn set ở mức trung bình = 100 Hz.



Những thao tác trên cốt yếu là để set cho tất cả các thiết bị đều có tín hiệu Input và Output nằm trong mức chuẩn. Sau khi đã kiểm tra chắc chắn, bạn cấp nguồn cho ampli. Đợi 10 giây cho mạch protect hoạt động, từ từ nâng biến trở âm lượng của từng ampli lên tới mức vừa đủ nghe tùy theo không gian nơi bố trí loa. Tất cả ampli nào cùng chung 1 way thì biến trở đều ở cùng 1 mức. Nên nhớ nếu set lên mức 0dB là ampli đã xử dụng hết tải công suất, nên set tối đa ở -10dB là là tối đa. Ampli nào không có mức 0dB thì xem đèn báo peak level, tuyệt đối không để sáng đèn này.



Trở lại mixer, sau tắt player, bạn cắm micro chính vào 1 trong những chnls nào tùy ý. Cũng như ở chnls tape-input, bạn set fader lên 0dB rồi thử nói vào micro và nâng biến trở gain cho loa bắt đầu kêu và đến khi đèn VU metter lên dưới ngưỡng 0dB. Sau khi chỉnh âm sắc cho micro, bạn cắm tất cả micro còn lại vào mixer và set tất cả cũng như micro chính. Nên xử dụng micro cùng loại để khỏi mất thời gian chỉnh riêng rẽ từng cái một. Micro dùng cho bộ trống jazz sẽ viết trong phần dưới.



Các nhạc cụ cũng làm theo thao tác như chỉnh micro chính, vì độ nhậy của từng loại nhạc cụ khác nhau nên fader cũng giữ mức 0dB, chỉ chỉnh biến trở gain thôi, khi vào chương trình mới chỉnh fader. Như thế tín hiệu nhập sẽ được cân bằng trong mixer nhất.



Đến phần set group. Tùy theo hãng sản xuất, bên cạnh fader chnls có từ 2 đến 4 sw bấm để chọn group cho từng chnl. Nếu không dùng group, thì phải bấm sw stereo, lúc này tín hiệu chì effect theo fader master. Nếu bấm sw group 1-3 và tắt sw stereo chẳng hạn, tín hiệu sẽ chia 2 và đi vòng sang 2 fader 1 và 3 và out ra ngõ group out 1 và 3. Bên cạnh group fader có thêm sw stereo, nếu bấm sw này, tín hiệu sẽ nối thêm sang fader master, group 1 nối sang left, group 3 nối sang right. Sw 2-4 cũng vậy, efect cho group 2 và 4. Cũng như mọi fader khác, fader cho group cũng set ở mức 0dB.



Công dụng của group là để nâng và hạ một số chnls đã chọn trước trong khi biểu diễn, lúc đó không thể nhanh chóng tăng giảm nhiều chnls một lúc được. Thí dụ bạn set group 1-3 cho nhạc cụ, group 2-4 cho những micro của trống jazz chẳng hạn. Những mixer cao cấp có thể có tới 8 groups, việc xử lý sẽ trở nên dễ dàng hơn.



Phần Aux out (auxiliary out) là để quản lý những loa monitor trên SK và những effect đấu paralell (đôi khi còn gọi là FX) như delay, reverb v.v. Tuỳ theo có chia ra nhiều line loa monitor hay không, bạn có thể cho từng chnl đưa qua những line đó. Chỉ thị từng line này là aux 1, 2, 3 v.v. out ra ngoài bằng aux out (aux send) tương ứng 1, 2, 3 v.v. Muốn cho chnl nào phát ra line nào thì vặn biến trở của aux đó lên, thường là set ở mức giữa, đều nhau. Thí dụ ca sĩ chính thì được cho nghe loa monitor đặt ngay trước mặt tiếng của chính mình đang hát, nhạc công trống jazz thì nghe toàn thể AT ngoại trừ tiếng trống của mình (vì sẽ bị feed back nếu đặt gần micro trống), ban nhạc thì nghe tiếng nhạc cụ của mình (nếu không có instrusment amplifier) và tiếng ca sĩ. Nói chung là người nào muốn nghe gì, có đó. Trên những SK lớn, số lượng loa monitor rất nhiều, phải có thêm một mixer chuyên dùng gọi là monitor mixer đặt bên hông SK, do một soundman khác quản lý những loa này. Tất cả các tín hiệu trên SK đều được đưa vào mixer monitor và rẽ nhánh song song xuống mixer FOH bằng 1 bộ cable chuyên dùng. FOH soundman, vì vị trí ở xa quá, không thể xử lý tốt được những gì trên SK.



Ở mỗi chnl, bên cạnh dãy biến trở aux thường có 1 sw gọi là pre hay EQ. Sw này có tác dụng cho tín hiệu khi ra ngã aux có qua phần tone chỉnh sửa âm sắc hay không, thông thường thì nhấn xuống để cho qua tone. Riêng những nhạc cụ nếu đã có qua ampli chỉnh sửa âm sắc rồi thì bạn nên để nguyên. Đôi khi loa monitor cho ca sĩ chính cũng được yêu cầu này vì họ muốn nghe giọng thật chưa chỉnh sửa.



Sau đây là hình chụp của 1 mixer PA dòng cao cấp hiện nay, rất trung thực và chính xác.



MIDAS series Verona, 40 channels, 8 groups.



Hình ảnh



-Delay, reverb:



Thiết bị effect đấu nối với mixer qua 2 ngã: input nối với aux-out (aux-send) và output nối với aux return (còn gọi là FX) của mixer. Thường thì dùng 2 thiết bị, 1 làm tiếng delay (lập lại), 1 làm tiếng reverb (vang). Hai thứ tiếng này khi mix lại sẽ làm tiếng hát đầy và sáng hơn. Những thiết bị sản xuất gần đây cao cấp hơn, có thể tạo cùng lúc 2 thứ tiếng effect, cho nên có thể chỉ cần dùng 1 thiết bị. Bạn nên set effect sao cho nó bỏ tiếng đầu tiên, để khi mix vào mixer sẽ không chồng lên nhau làm sái tiếng normal. Theo kinh nghiệm của nhiều soundman, bạn nên lấy 1 chnl stereo nếu còn dư của mixer dùng thay cho aux return. Cách này có đặc điểm là có tiếng efect stereo và khi qua phần tone của chnl, bạn sửa âm sắc lại một chút sẽ hay hơn.



-Crossover:



Hình ảnh



Hình trên là 1 dynamic crossover đơn giản nhất. Khi xử dụng chế độ stereo (2 input), nó sẽ chia ra cho mỗi channel 2 ways, khi xử dụng chế độ mono (1 input), nó sẽ chia làm 3 way. Đặc biệt trong thiết bị này là thêm phần cho subbass, 2 ngã tín hiệu vào được đấu chung thành mono và chỉ có 1 ngã output duy nhất.



Cách chỉnh cũng rất đơn giản, bạn nên set biến trở input và những gain output đều ở mức chuẩn 0dB. Biến trở Xover freq của subbass set ở mức trung bình là 100Hz, nếu loa sub tốt và ampli mạnh có thể hạ xuống 80Hz. Những way còn lại là tùy thuộc vào thông số của loa bạn đang dùng.



-Compressor:



Hình ảnh



Như tên gọi, compressor chuyên dùng để nén tín hiệu AT. Thiết bị này thường tích hợp thêm một tính năng nữa là limiter (hạn chế). 



Limiter dùng để hạn chế âm lượng theo ngưỡng peak do người dùng cài đặt. Quá ngưỡng này, thiết bị tự động điều chỉnh âm lượng nhỏ lại (auto level) không cho vượt ngưỡng, nhưng âm sắc hoàn toàn không thay đổi.



Trái lại, compressor cũng hạn chế âm lượng nhưng bằng cách nén lại. Bạn có thể hình dung đường biểu diễn hình sin của AT, khúc nhỏ bên trên bị đè xuống cho bẹt đầu tới mức ngưỡng, gần như là bị hớt phía trên, nếu ngưỡng thấp quá và nén cực mạnh thì thành ra gần giống như sóng vuông. Effect này làm cho AT phát ra nghe có vẻ gọn và chắc hơn trước khi nén. Dùng riêng cho từng nhạc cụ thì rất tốt, nhưng khi dùng cho toàn bộ hệ thống thì soundman phải rất cẩn thận.



Limiter cũng có khuyết điểm của nó, nếu trong hệ thống có 1 AT bất kỳ nào đó đột nhiên quá âm lượng vượt mức peak đã set (như nhạc cụ rò rè, feed back chẳng hạn), auto level sẽ tự động giảm tức thì âm lượng toàn bộ của hệ thống dù cho những AT khác hoàn toàn không bị over. Mức giảm này mạnh hay nhẹ tùy theo tín hiệu vượt peak nhiều hay ít.



Biểu đồ biểu diễn của hình sin AT khi qua từng tính năng:



Hình ảnh



Sau đây là những hiệu ứng cơ bản để chỉnh compressor.



Expander/gate: Lựa chọn mức tín hiệu sẽ vào thiết bị. Set ở mức nào, tất cả tín hiệu nhỏ hơn sẽ bị filter, không vào được thiết bị. Expander cho phép có thời gian trễ, nhưng gate thì effect tức thì.



Threshold: Đây là điểm ngưỡng mà tín hiệu bắt đầu bị nén. AT khi qua mức này sẽ bị nén theo các chế độ mà bạn sẽ cài đặt. Nếu bạn set ở 0dB thì coi như âm thanh sẽ không bị tác động bởi thiết bị.



Ratio: Định mức giảm âm lượng theo tỉ lệ. Thí dụ ở tỉ lệ 4:1, tín hiệu khi vượt qua mức ngưỡng, cứ mỗi 4dB sẽ bị giảm xuống còn 1dB so với ngưỡng. Nếu set ở 1:1, tín hiệu sẽ không bị nén. Tỉ lệ này tối đa có thể lên tới 10:1.



Attack: Ấn định thời gian sẽ bắt đầu nén khi tới ngưỡng, thường tính bằng m/second. 



Release: Ấn định thời gian khi đã nén và trở lại mức ban đầu, cũng tính bằng second.



Trong 1 số thiết bị có thêm tính năng auto cho attack và release. Khi bấm nút này, thiết bị sẽ tự động chỉnh thời gian attack và release tùy thuộc tín hiệu input.



Soft/hard knee: Khi set sang soft knee, chế độ nén sẽ diễn ra mềm và chậm hơn, từ trước cho đến sau mức ngưỡng. Hard knee dứt khoát nén từ mức ngưỡng.



Limiter: Hạn chế biên độ tối đa của âm lượng. Khi set ở mức nào thì không có tín hiệu nào có thể vượt qua được. Khi chỉnh lên mức max, coi như vô hiệu hóa tính năng này.



Có thể kiểm tra âm lượng bằng hệ thống đèn báo VU LED. Nhấn Sw In/Out để đổi sự hiển thị giữa 2 tín hiệu input và output để xác định có bị giảm biên độ khi qua compress và limit. Đặc biệt là thiết bị này ít khi có biến trở input (có lẽ không cần thiết vì lấy từ thiết bị khác output ra đã chuẩn rồi), biến trở output dùng để nâng bù âm lượng cho cân bằng khi qua thiết bị khác. 



Ngoài ra còn có thêm đèn LED Gain Reduction. Hệ thống đèn LED này báo mức âm lượng đã bị nén là bao nhiêu dB. Có thể hiểu rằng, khi không có đèn nào sáng là tín hiệu không hề suy giảm, càng sáng nhiều đèn là càng bị nén nhiều. 



Có nhiều loại compressor có thêm chức năng Link hoặc Stereo Link. Tùy theo hãng sản xuất có loại chức năng này nối hiệu ứng của 2 chnls của compressor và lấy mức trung bình, có loại thì vô hiệu hóa chức năng chỉnh của 1 chnl, chỉ cần chỉnh 1 bên là sẽ xảy ra hiệu ứng của cả 2 bên.



Compressor còn nhiều tính năng nữa, nhưng trong những bài AT cơ bản này chưa tiện nói thêm.



Qua phần trên, các bạn đã có thể phần nào hiểu được kỹ thuật của 1 thiết bị compressor đơn giản nhất. Về áp dụng, bạn có thể đặt nó ở bất cứ tầng nào của hệ thống AT. Nếu chỉnh toàn bộ, bạn set nó sau EQ. Cũng có thế set sau crossover để chỉnh riêng cho từng way. Ngoài ra còn có cách insert vào từng chnl để chỉnh riêng cho từng nhạc cụ, vocal v.v. Rồi nếu muốn, bạn insert vào stereo group của nhạc cụ để chỉnh sửa riêng toàn bộ group này. Còn có loại tích hợp 4 compressor trong 1 thiết bị, vậy rất dễ dàng cho bạn tùy nghi xử lý.



Riêng các bạn mới vào nghề, khi áp dụng, lúc đầu nên chỉ dùng compressor cho phần sub bass thôi, như tôi đã vẽ trong (1). Và dùng noise gate (giống compressor, nhưng đơn giản hơn) insert vào giàn micro của trống jazz.



Khi chỉnh sửa, bạn set tất cả nút hiệu chỉnh về vị trí flat, không tác dụng. Thí dụ biến trở output và threshold ở 0dB, gate min (off), limiter peak ở max (off), ratio ở min (1:1), attack và release ở min (nhanh nhất), có thể dùng auto nếu mới chỉnh lần đầu, knee ở hard (cho dễ nghe tác dụng).



Ở compressor, bạn nâng ratio lên 1 mức ấn định, thí dụ 4:1, rồi giảm dần threshold cho tới -15dB chẳng hạn. Trong giai đoạn chỉnh sửa này, bạn để ý nghe AT thay đổi như thế nào rồi tìm mức set theo ý bạn. Gate cũng vậy, bạn nâng dần cho tới khi được AT vừa ý.



Gợi ý:



Bạn dùng gate để cut các tạp âm nhỏ, để làm gọn tiếng lại, như tiếng trống tom, snare. Loa sub bass qua gate sẽ mất tiếng rền thùng.



Compress dùng để nén tiếng bass và kick cho có lực thêm vào, nếu nén ít và soft knee sẽ cho tiếng bass mềm, ngược lại, nếu nén mạnh và hard knee sẽ ra tiếng bass sâu, pha thêm gate vào như thế nào tùy ý bạn.



Limiter dùng để hạn chế quá tải ampli và loa, nâng tín hiệu lên cho đến khi đèn peak trên ampli sáng, trả ngược biến trở limiter cho đến khi đèn vừa tắt là được (để ý lúc thay đổi gain của ampli, phải check lại).



Cuối cùng, xin nói, tôi không phải là 1 soundman nên không thể hướng dẫn các bạn thêm nhiều chi tiết về cân chỉnh được nữa. Nhưng khi bạn đã hiểu hết về kỹ thuật, tính năng của compressor ở trên cộng với tai nghe AT và thời gian tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của bạn, tôi tin rằng bạn sẽ có cơ hội nắm rõ thiết bị này.

 

Cách điều chỉnh Graphic Equalizer.



Qua những bài post trước về âm thanh, các bạn có vẻ hơi nhàm chán vì chỉ là lý thuyết cơ bản. Nhân tiện có một số bạn yêu cầu, tôi xin spam một bài về thực hành trước khi tới bài tiếp về amplifier.



Equalizer (EQ) là một thiết bị âm thanh chính, chuyên dùng để điều chỉnh âm sắc. Phần tone trên các thiết bị pre-amp khác cũng là một dạng equalizer đơn giản. Thông dụng và pro hiện nay là EQ 2031 gồm có 2 x 31 bands cho mọi giải tần nghe được từ 20 đến 18 KHz. Thông thường là Graphic EQ, cao cấp hơn là loại Digital EQ (có thể giao tiếp với PC qua cổng COM).



Trước hết nói về các tính năng phụ của 1 Graphic EQ :



-Input, Output : Tất cả các thiết bị âm thanh pro đều dùng mức 0 dB làm chuẩn trong sự giao tiếp các thiết bị với nhau. Khi thiết bị trước EQ out ra ở mức 0 dB thì bạn cũng phải chỉnh input level sao cho đèn VU metter cũng ở mức 0 dB. Output level cũng vậy, 0 dB luôn. Như vậy, bạn đã set thiết bị EQ không khuyếch đại (in = out). Thông thường, nếu EQ của bạn đạt chuẩn, hai biến trở này nằm ở giữa, mức 0 dB.



-By pass : (cho qua) Khi nhấn nút này có nghĩa là bạn không xử dụng những sự điều chỉnh đã làm nữa. Nó sẽ nối mạch giữa input và output không đi qua tầng effect, nhưng pre-amp vẫn giữ nguyên.



-Lo-cut, Hi-cut : Tác dụng lọc âm thanh chỉ để lại những tần số có thể nghe được. Lo-cut bạn lọc hết những tần số từ 20,25 Hz trở xuống. Hi-cut lọc từ 18 KHz trở lên, nếu bạn không có loa Super high thì cắt luôn tới 15, 16 KHz, đằng nào cũng nghe không được thì nên bỏ luôn, khỏi tốn công suất của ampli cho giải tần này.



-Range : Tác dụng thay đổi biên độ effect. Từ ±12 dB sang ±15 dB. Khi bạn cần tấn công mạnh vào âm sắc mới sử dụng ±15 dB, bình thường set ở ±12 dB là được.



Sau khi bạn đã làm tất cả những tính năng trên, ta chuyển sang vấn đề chính : Điều chỉnh 31 biến trở cho 31 bands âm tần. 



Trước hết, bạn hãy đưa 31 biến trở về vị trí flat tức là ở 0 dB. Khởi động tất cả thiết bị bạn đang có, cho đĩa CD mà bạn nghe quen và thích nhất vào Player. Nên tìm CD nào về hòa âm, phối khí, có nhiều loại nhạc cụ, sẽ có nhiều giải tần hơn để xử lý.



Nói thêm, trước đó bạn phải có một quá trình định dạng thẩm âm nghe nhạc (luyện tai). Bạn hãy tìm mốc của âm thanh hay bằng cách nghe nhiều và tìm hiểu tất cả về những voice mà bạn có thể cảm nhận được trong những bài nhạc hay. Phần luyện tai này là phần khó nhất trong cuộc đời của một Sound man. Có người thành công là do năng khiếu trời cho họ có hai lỗ tai tuyệt hảo, nhưng phần lớn là do tập luyện thật nhiều. Nghe nhiều, tập tìm tòi, phân tích âm thanh là phương pháp bắt buộc của người điều chỉnh âm thanh tốt. Nếu không có điều kiện nghe những giàn AT thật tốt, tôi hướng dẫn các bạn một cách tập dễ dàng, đơn giản, đốt giai đoạn hơn (chỉ là một cách, dĩ nhiên về sau bạn cũng phải tập nhiều phương pháp khác) : Bạn hãy tìm mượn, mua tùy túi tiền của bạn, một Headphone loại cao cấp, khoảng vài trăm USD/cái như AKG, Pioneer v.v.về tập nghe. (Quá trình luyện tai này từ vài tháng đến vài năm là do bạn). Như đã nói trên, bạm cắm head phone vào Mixer hay trực tiếp vào Player không qua chỉnh sửa âm sắc. Đĩa CD nào cũng vậy, từ phòng thu (studio) ra, họ đều điều chỉnh, mông má âm thanh thật tốt rồi, khó làm hay hơn được nữa. Bạn nghe một số CD trước đã, thật nhuần nhuyễn những âm thanh trong đó rồi hãy chỉnh sửa thiết bị của mình sau.



Sau khi giàn âm thanh của bạn đã được khởi động, bây giờ bạn hãy điều chỉnh cho loa của bạn ra âm thanh giống hệt khi bạn nghe qua head phone. Gạt lên, xuống từng band một khi nghe vừa ngưỡng là được, band nào chưa thẩm định được thì bỏ qua, sang band khác, đến khi hết thì trở lại rà vài lần. 



Đến đây, hãy coi lại xem biểu đồ đường biểu diễn của 31 bands bạn vừa chỉnh sửa tạo thành hình gì? Thông thường, với các bạn mới vào nghề, còn nhát tay, nên đa số sẽ làm thành một hình mà tôi gọi là hình cánh chim bay (xem hình vẽ dưới). 



Hình ảnh 



Quên đi ! Bạn đã phí phạm tính năng của EQ pro rồi. Với một “Tone” đơn giản 3 effect tôi cũng làm được như trên, bằng cách nâng bass, treble, giảm mid, phải không bạn? EQ là để bù đắp những khuyết điểm của tín hiệu AT khi qua amplifier phát ra loa nghe không còn giữ được nguyên bản. Không có ampli nào khuếch đại được hết cả các giải tần, có chỗ thiếu, chỗ dư. Loa thì nhiều âm sắc không ra được, sinh ra tiếng bể, chưa kể thùng và màng loa cộng hưởng sinh ra nhiều âm thanh lạ. Bạn hãy nghe rõ từng khuyết điểm khác biệt, mò dần từng band tới chỗ tần số đó nâng hay cắt thật dứt khoát. Với EQ 31 bands, nếu có vài band bạn nâng, cắt tới ±15 dB cũng không ảnh hưởng gì tới tổng thể bài nhạc đâu. Cũng chưa chắc hết được những khuyết điểm, vì phải cắt bớt một số giải tần, nhưng chủ yếu sẽ được một AT sạch sẽ trong trẻo hơn so với trước.



Đến đây, bạn check lại lại những thao tác bạn vừa làm bằng cách nhấn bypass, so sánh thử với lúc đầu tiên có hay hơn không (cũng có khi dở hơn!!). Thử lập đi lập lại nhiều lần, sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm hơn trong việc xử lý âm thanh.



Chuyên nghiệp hơn, bạn xử dụng thêm 1 EQ digital làm nhiệm vụ chỉnh sửa theo hệ thống ampli và loa bạn có. Vì giao tiếp với PC được nên nó cho phép đa dạng hơn, nhiều chức năng hơn nên tên gọi bao quát hơn : quản lý loa (speaker management). Thông dụng của loại này là XTA DSP 226, Behringer DCX 2496 v.v. Chất lượng EQ digital tùy thuộc vào 2 chip biến đổi AD và DA (analog, digital) còn phần mềm thì tương đối giống nhau. 



Khi đó bạn giữ EQ graphic xử dụng trong tình huống cấp thời, vì thao tác sẽ nhanh hơn EQ digital. Thí dụ trong live show chống tiếng hú (feed back) chẳng hạn, nghe peak ở giải tần nào thì cắt thẳng tay sẽ giảm được phần lớn khuyết điểm này. Cắt hoặc nâng cấp thời trong show đang diễn những tình huống như giàn nhạc cụ rò rè, những voice phát sinh do cộng hưởng AT v.v tùy bạn xử lý.



Dưới đây là biểu đồ demo cách xử lý AT của didital EQ phần input model XTA DSP 226 :



Hình ảnh 



Trong khuôn khổ của một bài viết, tôi không thể nói ra hết những gì mình muốn trình bày. Mong sao qua bài này, các bạn có thêm một ít kiến thức về EQ. Quan trọng nhất vẫn là hai tai thẩm định AT của bạn. Đến khi nào mà bạn nghe được một voice bất kỳ, không cần thử, bạn có thể biết chắc chắn được nó nằm ở giải tần nào của 31 bands EQ là bạn có thể thành Sound man khá rồi đấy. Chúc các bạn sớm thành công.

 

Phase Detector: Thiết bị không thể thiếu khi setup AT chuyên nghiệp.



Trong những bài viết trước, tôi có giới thiệu sơ lược về thiết bị này. Có vài bạn email hỏi tôi thêm về tính năng và nơi cung cấp. Hôm nay tôi viết bài này cho các bạn hiểu rõ thêm.



Phase detector là thiết bị chuyên dùng để tìm ra lỗi khi hệ thống AT của bạn khi setup bị ngược phase ở hệ thống loa. Trong AT pro, chúng ta bắt buộc phải xử dụng dây tín hiệu balance làm giao tiếp giữa các thiết bị với nhau, nhưng cũng rất khó để kiểm tra tất cả sai sót vì số lượng qua lớn, nhất là khi làm show biểu diễn, không có thời gian.



Trong jack XLR3, chân 2 và 3 mang 2 tín hiệu ngược phase với nhau. Nếu do sơ suất, bạn có thể hàn ngược 2 chân này. Kết quả là tất cả các loa đi sau dây này sẽ bị phát ngược phase tần số với toàn hệ thống AT của bạn.



Ngay trong cách đấu dây loa của bạn. Các hãng sản xuất đều có đánh dấu 2 cực + - trên các cọc loa để phân biệt. Nhưng vì lý do nào đó, dấu trên thân loa bị mất, khi loa hư hỏng đem đi quấn lại, hoặc có hãng sản xuất đánh dấu ngược với chuẩn thông thường (loa TQ hay bị trường hợp này). Với các loa sub hay lo-mid, bạn có thể kiểm tra bằng cách dùng nguồn pin để kiểm tra như tôi đã có hướng dẫn. Nhưng với các loại loa nhỏ hơn thì hoàn toàn bó tay. Nhất là bây giờ, trên SK chuyên nghiệp xử dụng cả một rừng loa, làm sao bạn có thể kiểm tra tất cả được.



Như tôi đã viết, có một nguyên lý về âm học : Khi hai âm thanh có tần số giống nhau nhưng nghịch phase đặt gần sát bên nhau, âm lượng phát ra sẽ cộng hưởng đối xứng và sẽ bị “triệt tiêu”. Trên thực tế, bạn không thể nghe bằng tai khuyết điểm này. Bạn chỉ nghe thấy cảm giác hơi khác thường với hệ thống AT của bạn dù rằng đã nghe rất quen tai. Khi nâng một tần số nào đó lên, bạn lại có cảm giác như tần số đó càng tăng lại càng bị mất đi chứ không tăng biên độ. Đó là hệ thống AT đã bị ngược phase ở chỗ nào rồi đấy. Thiết bị Phase detector là để kiểm tra pan đó dùm bạn một cách nhanh và chính xác nhất.



Nguyên lý hoạt động của Phase detector như sau: 



Nó gồm có hai thiết bị nhỏ gọn, cầm tay, riêng biệt, rời nhau dùng nguồn pin 9V:



- Transmitter: Phát ra một tín hiệu AT đa tần (tất cả giải tần nghe được). Vì là DC nên chỉ có một xung dương duy nhất, phát theo xung nhịp 1 giây đồng hồ. Output của nó là một jack XLR3 (có thể đảo ngược chân 2, 3 bằng một switch trên thiết bị), hoặc bằng một loa nhỏ built-in phát ra AT có thể đưa thẳng vào micro. Thông thường, tín hiệu này được đưa thẳng vào mixer qua ngã input microphone.



-Receiver: Input là một jack XLR3 dùng để đo phase của tín hiệu. Nó còn có một micro nhỏ gắn trong dùng để nghe AT của loa phát ra. Trên mặt thiết bị có 2 đèn LED xanh lục, đỏ để hiển thị xung nhịp nhận được của transmitter sau khi đã qua hệ thống AT. Nhận được xung đồng phase, nó sẽ báo đèn màu xanh lục, và ngược lại khi nhận xung nghịch phase, nó sẽ báo đèn màu đỏ. Khi xử dụng, áp micro của receiver sát vào từng loa muốn đo, nếu đồng phase thì bỏ qua, đo loa kế tiếp. Kiểm tra receiver bằng cách áp vào lỗ thoát hơi của thùng loa. AT nghe được ở đây bắt buộc phải nghịch phase vì là tiếng sau lưng của loa, bao giờ cũng ngược với chiều thuận. Khi phát hiện ra lỗi ở chỗ nào, bạn sẽ dễ dàng khắc phục bằng cách hàn lại dây tín hiệu hay đấu nối lại dây loa, tạo ra sự an toàn tuyệt đối khi setup AT.



Thiết bị này, giá mua ở Singapore hiện nay là 500USD (hiệu Radio Shack), ở VN không có chỗ nào bán loại này. Cách đây nhiều năm, tôi có làm vài bộ cho tôi và bạn bè xử dụng, đến nay vẫn còn tốt. Nhận thấy cũng có nhiều bạn mới trong ngành nghề sau này cũng có nhu cầu, thời gian vừa qua tôi đã thiết kế lại, lắp ráp và sản xuất vài chục bộ để chia xẻ cho những bạn nào cần dùng nhưng không có điều kiện mua hàng ngoại nhập.